Từ ngày rời ghế nhà trường, đời tôi thật may
mắn, lúc nào cũng kiếm được những công việc làm tốt và nhất là luôn luôn gắn bó
gần gủi với quê nhà. Tôi cám ơn Trời Phật đã ban cho tôi đặc ân này và còn tiếp
tục phù hộ tôi từ khi bước chân vào quân trường cho đến sau ngày đất nước rơi
vào tay Cộng Sản.
Tôi vốn thích môn Anh văn trong thời gian còn ở
bậc Trung học, cộng thêm 2 năm làm việc cho cố vấn Mỹ sư đoàn 23 tại Ban Mê
Thuột, 2 năm cho cố vấn Mỹ tại Trường Võ Bị Quốc Gia Đalat và 2 năm phụ tá
Trưởng Phòng Nhân Viên dân chính tại Nha Trang, đã giúp tôi hiểu biết khá nhiều
về danh từ quân sự, nên đã may mắn thi đậu về Trường Sinh Ngữ Quân Đội Quân-Lực
Việt-Nam Cộng-Hòa sau khi mãn khóa 24 Sĩ Quan Trừ Bị Thủ Đức vào giữa năm 1967.
Nhớ lại ngày lên Diên Khánh trình diện với
Trung Tâm 2 tuyển mộ nhập ngũ, lòng tôi vô cùng lo lắng. Lo lắng vì không biết
mình có được vào thẳng quân trường Thủ Đức hay phải qua Trung Tâm Huấn Luyện
Quang Trung. Mấy trăm thanh niên chúng tôi được xe GMC chở xuống bến cảng Cầu
Đá để lên tàu Hải Quân về trình diên văn phòng Quân Vụ Thị Trấn Sàigòn trên
đường Lê ăn Duyệt. Chúng tôi nhận được tin vui là sẽ đi thẳng lên Thủ Đức thay
vì Quang Trung. Những chiếc GMC đổ lại ngay sau khi vào trong cổng trại quân
trường để mấy trăm thanh niên bở ngở bước xuống xe với mỗi người mang theo một
túi nhỏ chứa đồ dùng lặt vặt.
Vừa khi đó, một vị Trung Úy mang bảng tên Huởn
ra chào đón và đời lính của chúng tôi bắt đầu ngay từ giờ phút này. Ông bảo
chúng tôi chạy vào vũ đình trường, bỏ tất cả túi xách xuống rôi tiếp tục chạy
đến mấy vòng tôi không nhớ. Chỉ nhớ là khi chúng tôi ai nấy thở giốc ra và chỉ
đi chứ không còn chạy nổi nữa thì ông mới dẫn về trại. Mệt nhưng không được
nghỉ mà phải tập họp để phân chia thành tiểu và trung đội. Hôm sau chúng tôi
“xuống tóc”, nhận lãnh quân trang, quân dụng và súng cá nhân. Lúc bấy giờ vẫn
chưa được Mỹ trang bị M-16 nên chúng tôi mang Garant-M1 trông giống cây sào
chăn vịt đối với những anh lính thiếu thước tấc. Chúng tôi được học cách đi
đứng và chào kính. Chào sĩ quan thì ít mà chào đàn anh thì nhiều mặc dù họ chỉ
là lính con cá vì đi đâu trong quân trường cũng gặp mấy “ông nội” đã quần thảo
chúng tôi không thương tiếc trong thời gian huấn nhục. Vũ khí đầu tiên chúng
tôi học tháo ráp chính là người tình Garant của chúng tôi. Nhiều khi chúng tôi
không cưng người tình bằng xương bằng thịt bằng người tình này vì không lau
chùi giữ nó bóng láng sạch sẽ thì không được hôn em mà hôn đất. Ngày tập chiến
thuật là ngày đầu chúng tôi bước ra khỏi cổng trường. Mỗi tiểu đội thay nhau
tập đào hố cá nhân và cấm lá trên người tập ngụy trang. Ngày đầu tập xử dụng
súng chúng tôi được những Hạ Sĩ Quan chuyên môn về vũ khí biểu diễn rất ngoạn
mục tài xử dụng vũ khí.
Chỉ Huy Trưởng Trường Bộ Binh Thủ Đức thời đó
là Chuẩn Tướng Lâm Quang Thơ. Tôi thuộc đại đội 18 với Đại úy Sinh làm Đại Đội
Trưởng. Cùng trung đội với tôi có Thầy Hiền dạy Võ Tánh, chồng Kim Anh, người
rất hiền lành đúng là nhà mô phạm. Thầy Hiền xuất thân Đại Học Sư Phạm Anh văn.
Biết mình trước sau cũng được trở về nghề dạy học cho nên Thầy tham dự kỳ thi
tuyển về Trường Sinh Ngữ Quân Đội mà không quan tâm đến chuyện đậu rớt.
Cho dù học tập trong hay ngoài trường, SVSQ
chúng tôi đều được vợ con các hạ sĩ quan huấn luyện viên tiếp tế chè đậu đen,
nhất là sương sa đá lạnh ăn thật ngon miệng mát ruột. Nhờ vợ cung cấp tiền bạc
nên tôi ít ăn nhà bàn tức ăn tập thể với đa số SVSQ mà vào ăn ở câu lạc bộ. Về
quân phong quân kỷ thì hình phạt hít đất là chuyện thường tình như thở không
khí. Và chuyện thi hành trước khiếu nại sau là luật bất thành văn trong quân
ngũ. Không dám tự khen mình là người tự trọng, nhưng suốt thời gian ở quân
trường, tôi không bao giờ bị phạt cá nhân vì lúc nào tôi cũng làm tròn bổn phận
của ngưòi lính như đôi giày, bút nịt, vũ khí cá nhân, áo quần, giường tủ… lúc
nào cũng tươm tất sạch sẽ. Hình phạt cá nhân thường xẩy ra nhất là tập họp trễ,
cho nên lúc nào tôi cũng đứng quanh quẩn nơi tập họp sớm ít nhất là 5 phút. Sau
giai đoạn I, những SVSQ có năng khiếu và thi đậu được về trình diện các đơn vị
chuyên môn. Riêng 13 SVSQ chúng tôi đậu về Trường Sinh Ngữ Quân Đội thì vẫn
phải ở lại để tiếp tục giai đoạn II là thời kỳ bò dưới hỏa lực, đi giây tử thần
và đoạn đường chiến binh.
Tôi nhớ vào một đêm, tất cả sinh viên sĩ quan
khoá 24 được hướng dẫn đến ngối dày đặc dưới sân trong hôi trường để thưởng
thức chương trình văn nghệ do các ca sĩ từ Sàigòn vô trình diễn giúp vui, trong
số đó tôi nhớ có ca sĩ Giao Linh. Có lần sau khi tập cơ bản thao diễn vở vũ
đình trường, lợi dụng vài phút tạm nghỉ, một sinh viên người Bắc dùng
microphone hát rất hay bài hát bài “Nỗi long người đi” mà câu đầu nằm mãi trong
trái tim tôi: “Anh xa Hà Nội năm em mười sáu khi vừa biết yêu…”. Tôi không biết
tên tác giả mãi cho đến ngày nhạc sĩ Anh Bằng đến quận Cam Nam California tham
dự đêm nhạc hội vinh danh ông vào năm 2009.
Hết mấy ngày phép sau mãn khóa, tôi đến Trường
Sinh Ngữ Quân Đội trình diện vị Chỉ Huy Trưởng, Trung Tá Phan Thông Tràng. Ông
nổi tiếng rất nghiêm khắc, nhất cử nhất động đều đúng mẫu mực nhà binh. Lúc còn
ở quân trường dù cho giày không bóng, bút nịt không láng cũng chẳng sao. Tại
trường Sinh Ngữ này, tất cả sĩ quan giảng viên đều phải cắt tóc ngắn, áo quần
giày mũ tươm tất sạch sẽ bóng láng. Đúng là tránh xong vỏ dưa lại đụng phải vỏ
dừa! Trong các buổi lễ bế giảng các khóa Thông dịch viên, Trung Tá Tràng đọc
diễn văn bằng tiếng Việt và một giảng viên phải dịch ngay ra tiếng Anh cho các
cố vấn Mỹ tham dự hiểu. Có lúc ông đọc cả thơ nên lưu loát như giáo sư Lê Chính
Long mà cũng phải “khổ” với ông. Sau những lần bắt tay với khách hoặc các sĩ
quan thuộc cấp tại văn phòng, Trung Tá Tràng lấy alcol “tẩy trùng” bàn tay
mình.
Trường Sinh Ngữ Quân Đội nằm chung trong Bộ
Tổng Tham Mưu gần cổng số 4. Nhiệm vụ chính là dạy Anh văn cho quân nhân các cấp
các ngành thuộc QLVNCH được tuyển chọn để đi học chuyên môn tại các quốc gia
như Mỹ, Nhật, Tân Gia Ba…cùng các khóa Hạ Sĩ Quan Thông Dịch Viên để đáp ứng
nhu cầu cấp bách của chiến cuộc. Vì thìếu giáo sư nên trường có mời một số giáo
sư dân sự tăng cường. Một trong số giáo sư thỉnh giảng này là chị Đoàn Thị Vân
Anh có bằng Master ở Mỹ. Chị là cựu học sinh Võ Tánh, con của Thầy Đoàn Thành
Hiệu Trưởng Trường Nam Tiểu Học Nha Trang. Trường có một Chi Nhánh duy nhất đặt
tại Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang thuộc quê nhà của tôi nên tôi xin
và được Chỉ Huy Trưởng chấp thuận ngay vì ông cần người ra thay thế một vài sĩ
quan giảng viên đang "bị đày" ra Chi Nhánh trong lúc họ muốn phục vụ
tại Sài Gòn để vừa lo cho vợ con vừa dạy thêm các lớp Anh văn buổi tối để kiếm
chút tiền phụ giúp gia đình.
Tôi trình diện với Đại Úy chỉ huy Chi Nhánh Vũ
Đức Giang vào lúc khóa 16 SVSQHQ vừa ra trường, Hải Quân Đại Úy Hà Ngọc Lương
làm Tiểu Đoàn Trưởng khóa sinh, Hải Quân Kỷ sư Cơ khí Đại Úy Trần Văn Sơn phụ
trách Trưởng Phòng Điều hành Huấn luyện, Hải Quân Thiếu Tá Vũ Xuân An làm Giám
Đốc Quân Huấn (sau đổi thành Văn Hoá Vụ), Hải Quân Thiếu Tá Nguyễn Tam làm Chỉ
Huy Phó và Hải Quân Trung Tá Đinh Mạnh Hùng làm Chỉ Huy Trưởng. Tôi còn nhớ chỉ
vài tháng sau đó trong một buổi chiều tham dự buổi học tập Chiến tranh Chính
trị ngoài trời cạnh bệnh xá, vị Chỉ Huy Trưởng đã mang cấp bậc Đại tá (sau vinh
thăng Phó Đề Đốc, trùng tên với Hải Quân Trung Tá Đinh Mạnh Hùng khóa 11 hiện ở
Seattle). Tại Chi Nhánh Hải Quân tôi gặp giáo sư Trần Khánh là thân phụ xướng
ngôn viên Mộng Lan của các đài truyền hình ờ Nam California. Chì vài tháng sau
là Khánh về lại Sàigòn. Người thay Khánh là giáo sư Tôn Thất Đồng Nai. Anh nói:
“Chẳng hiểu thằng Khánh nó than khóc năn nỉ thế nào mà ông Tràng thấy moa chưa
kịp hớt tóc là “đày” moa ra đây để hắn về với vợ con”.Trong cuộc chiến Tết Mậu Thân, các sĩ quan biệt
phái chúng tôi cũng phải cấm trại, cũng trực, ứng chiến chung với một sĩ quan
Hải Quân tại phòng trực cạnh cổng ra vào Trung Tâm. Có một đêm tôi tình cờ được
cắt cử trực chung với Hải Quân Đại Úy Mai Văn Hoa. Suốt đêm chỉ kể chuyện trên
trời dưới đất cho chóng hết giờ. Đại Úy Hoa tâm sự về cuộc tình khá vui mà tôi
chỉ còn nhớ có một câu:"Có thể nói vừa tình cờ mà cũng vừa duyên số khi họ
tôi trùng với tên bà vợ".Cùng sang Mỹ sau tháng 30/4/75, Trung Tá Hoa và
tôi thỉnh thoảng gặp nhau tại chùa Pháp Vân thuộc thành phố Pomona, nơi tôi
giúp thành lập và làm Gia Trưởng đầu tiên của Gia đình Phật tử chùa này vào năm
1978. Vài năm sau tôi được hung tin về tai nạn xẩy ra cho Trung Tá Hoa tại
Bakerfield.
Việc giảng dạy Anh văn cho SVSQ thật nhàn rổi
đối với 5 sĩ quan biệt phái chúng tôi, trong đó có Đại Úy Nguyễn Văn Minh là em
ruột Hải Quân Đại Tá Nguyễn Văn Thông, Tư Lệnh vùng I duyên hải. Có lẻ Đại Úy
Minh (sau này làm Trưởng Chi nhánh Anh ngữ) được cái dù che nên chúng tôi mới
đỡ mưa nắng, ít khi phải vào Trung Tâm ngủ trong những lần cấm trại. Trong
những lúc rảnh rổi, chúng tôi bước sang hội trường chơi bóng bàn hoặc sau giờ
tan sở ra chơi quần vợt. Ngoài giờ học trong lớp, đặc biệt về danh từ Hải quân,
sinh viên còn vào phòng thính thị để tập nghe và làm quen với cách phát âm của
người Mỹ, một lợi thế để thi ECL (English Comprehension Level) nếu sinh viên
muốn được tuyển chọn đi thực tập trên Đệ thất hạm đội. Đây là cơ hội để sinh
viên nghỉ mát trong phòng có máy điều hòa không khí, nên thường giảng viên
chúng tôi thông cảm những giọt mồ hôi hằng ngày toát ra trên cơ thể mà làm ngơ
khi thấy một vài sinh viên gục đầu ngủ thoải mái, hoặc đi bờ về mang theo băng
nhạc để nghe. Sau này gặp lại nhau tại Mỹ, các bạn đó nói đùa là nếu họ chăm
chỉ học thời đó thì nay đâu có trở thành người tỵ nạn! Nhớ lại những lần mãn
khóa, sân tennis được dùng làm vũ trường và từng cặp trai tài gái sắc của Nha thành
mến yêu lã luớt dìu nhau dưới ánh đèn không đủ ánh sáng.
Chỉ Huy Trưởng kế tiếp là Hải Quân Đại Tá
Khương Hữu Bá. Nếu Hải Quân Đại Tá Đinh Mạnh Hùng đẹp trai dễ dãi trông giống
nhà mô phạm thì Đại Tá Bá trông nghiêm nghị khắc khổ, một biểu tượng của quân
phong quân kỷ. Tuy nhiên, Đại tá Bá rất chịu chơi và thông cảm với sinh viên,
nên thỉnh thoảng cho thuộc cấp tổ chức các show “cuổng trờ”i tại hội trường để
sinh viên rửa mắt. Nhưng Đại Tá đâu có biết là sau khi rời hội trường, vài sinh
viên tâm tình với tôi vào ngày hôm sau là vì "mắt sáng quá nên đêm qua
không ngủ được".
Lần đầu tiên trong đời tôi được chứng kiến một
đám cưới tổ chức theo kiểu cách Hải Quân với sự cho phép và giúp đỡ của Chỉ Huy
Trưởng Khương Hữu Bá giữa chị Tôn Nữ Thị Khánh và Hải Quân Thiếu Tá Võ Quang
Thủ. Đẹp nhất là cảnh cô dâu chú rể tay trong tay dìu nhau dưới hai hàng kiếm
danh dự trông thật oai nghiêm.
Mấy năm sau, Hải Quân Trung Tá Võ Quang Thủ về
lo Văn Hóa Vụ, rồi sau bàn giao cho Hải Quân Trung Tá Đặng Diệm dưới thời Chỉ
Huy Trưởng Phó Đề Đốc Nguyễn Thanh Châu. Không biết đoán được thời thế hay nhờ
sinh nhằm năm có quý nhơn phù hộ mà Hải Quân Trung Tá Đặng Diệm đã rời chức Văn
Hóa Vụ Trưởng để sang Mỹ du học rồi trở thành người tỵ nạn mà không phải di
tản. Hải Quân Trung Tá Hà Ngọc Lương về Phòng Văn Hoá Vụ đúng vào thời điểm đen
tối nhất của TTHLHQ. Có lẽ vì việc di tản xuống Cầu Đá để lên chiếc tàu chót
quá đông đảo và nguy hiểm vào đêm 31-3-75 nên Trung Tá Lương đã kẹt lại để rồi
anh dũng kết liễu đời mình cùng với vợ con.Thời Hải Quân Đại Tá Nguyễn Trọng Hiệp lên làm
Chỉ Huy Trưởng thì vị Chỉ Huy Phó là Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Nhựt. Đại Tá
Hiệp trông phúc hậu hiền hòa, rất được thuộc cấp thương kính, nhưng về mặt văn
nghệ, chắc Đại Tá không thích hợp với tiếng hát câu hò. Tượng Đức Thánh Trần
Hưng Đạo và Lăng Miếu mới bắt đầu được xây cất vào cuối khóa 23, tiếp tục cho
đến khóa 25 mới hoàn tất dưới sự chỉ huy điều động của Trung Tá Nhựt và sự đóng
góp tích cực của một số SVSQ "kiến trúc sư" như Nguyễn Hữu Tưởng, Âu
Dương Xuyên, Phan Thanh Quang, Mai Chính Bình, Đặng Văn Phát v.v.. Trung Tá
Nhựt và các sinh viên ngày đêm miệt mài lăn lộn lo thực hiện một công trình vĩ
đại, một công tác khó khăn kéo dài hơn cả năm trời, nhưng khi Tượng đài được
khánh thành vào cuối năm 1973 nhân dịp mãn khóa 24, tôi để ý nhưng không thấy
một bản ghi tên các điêu khắc gia trên đó. Năm 2008, nhân dịp kỷ niệm 33 năm,
các SVSQHQ khóa 26 có mời Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Nhựt từ Dallas sang dự.
Trông Trung Tá vẫn nhanh nhẹn trẻ trung mặc dù tuổi thọ nay đã gần 80 và bị
Việt Cộng bỏ đói lao động cực khổ trên mười năm trời.
Đến thời Chỉ Huy Trưởng cuối cùng thì Trung Tâm
Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang lần đầu tiên mới có vị chỉ huy cấp Tướng. Phó Đề
Đốc Nguyễn Thanh Châu là vị sĩ quan rất bình dân, gọi và xưng hô với thuộc cấp
rất là tự nhiên. Có lẽ vì lý do này mà ông có biệt danh là “Cowboy Châu”. Chiếc
xe Jeep gắn sao lúc nào cũng có quân cảnh hộ tống dù chỉ di chuyển trong quân
trường. Tôi còn nhớ vào một buổi xế trưa, tôi đang chơi bóng bàn với Thượng sĩ
Long trong hội trường thì thấy một quân cảnh bước vào báo là có “Đô Đốc” đến.
Mặc dù hai chữ Đô Đốc rất quen thuộc với tôi vì người anh ruột tôi là Văn Hùng
Đô và tôi là Văn Hùng Đốc (mà tôi lại đi Bộ binh!), nhưng thú thật lúc đó tôi
hơi bối rối vì vào khoảng 2, 3 giờ chiều là lúc đang làm việc mà mình lại chơi
bóng bàn, nhưng rồi tôi lấy lại được bình tỉnh ngay khi vị Chỉ Huy Trưởng thay
Thượng sĩ Long đánh thử vài quả rồi bỏ đi. Tôi thường chơi bóng bàn với Hải
Quân Đại úy Nguyễn Xuân Diên, Hải Quân Thiếu tá Nguyễn Dinh. Còn về quần vợt
thì tôi chơi với sinh viên Nguyễn Đức Nghĩa (trong vụ còi hụ Long an), Hải Quân
Thiếu tá Đặng Hữu Thân, Thiếu tá Y sĩ Trương Cao Nghĩa, Hải Quân Trung Tá Võ
Quang Thủ, Hải Quân Trung Tá Mai Văn Hoa. Chơi xong thường chúng tôi rủ nhau
xuống Chut ăn phở gà.
Ngoài hai vị Chỉ Huy Trưởng Đinh Mạnh Hùng và
Nguyễn Trọng Hiệp còn có các sĩ quan khác tính tình cũng dễ thương, được sự cảm
mến của hầu hết quân nhân các cấp, đó là các Hải Quân Trung Tá Nguyễn Văn Nhựt,
Hải Quân Trung Tá Đặng Diệm, Hải Quân Thiếu Tá Trần Văn Tâm (nhà văn Trần Quán
Niệm), Hải Quân Trung Tá Võ Quang Thủ, Hải Quân Trung Tá Đỗ Công Thành, Hải
Quân Thiếu Tá Nguyễn Văn Minh (thấp người) v.v… Khi đề cập đến bạn Đỗ Công
Thành làm tôi nhớ lại thời thập niên 1950, ngoài Thành còn có bạn Võ Thành Đông
cùng học một lớp tại trường Tiểu Học Pháp Việt Ninh-Hòa. Chúng tôi thường đến
trường sớm hoặc những giờ ra chơi cùng nhau bắn bi. Riêng về Đỗ Công Thành và
tôi thường thay nhau bắt giọng hát bài quốc ca Việt Nam vào buổi sáng và chiều
khi tan trường. Thành học rất giỏi, nhưng khi thi vào lớp đệ thất Võ Tánh thì
chỉ có tôi và Đông đậu. Lý do Thành rớt vì làm bài quá mau, nộp bài quá sớm nên
giám khảo nghi Thành gian lận. Sau bao năm vật đổi sao dời chúng tôi mỗi người
có cuộc sống riêng nên ít khi gặp nhau để rồi cuối cùng chính Trung Tâm Huấn
Luyện Hải Quân Nha Trang là điểm hẹn. Đông là Sinh viên Sĩ quan Hải quân khóa
17. Thành làm Hiệu trưởng Trường Sinh Viên Sĩ Quan. Đúng là quả đất tròn!
Trong thời gian làm việc khá lâu tại TTHLHQ,
tôi nhận thấy rõ sự phân cách giữa cấp Úy và cấp Tá, không hẵn vì cái mũ có hay
không có bông lúa, mà ngay tại câu lạc bộ sĩ quan, đôi khi tôi thấy cấp nào
cũng thích ngồi cùng bàn với nhau, có thể là để trò chuyện thích hợp hơn với
phòng sở mình chăng?
Đang sống cuộc đời nhàn hạ, dùng phấn
trắng bảng đen thay súng đạn nơi chiến trường thì tình hình chiến cuộc thảm
khốc từ miền Cao nguyên sang miền Trung rồi lan đến ngay quận Khánh Dương của
tỉnh Khánh Hòa khiến tôi cũng như quân nhân thuộc TTHLHQ thực sự lo lắng.
Sáng ngày 31 tháng 3 năm 1975 tôi thấy chiếc HQ
402 đang ủi bãi ngay trước Trung tâm. Tôi tò mò đến gần xem thì thấy SVSQ khóa
26 đang được lệnh canh giữ không cho đồng bào tràn lên tàu vì chỉ dành riêng
cho gia đình quân nhân thuộc Trung Tâm. Trông thấy Bác sĩ Vũ Công Liêm đang
xách cặp bước qua lại trước tàu nhưng sinh viên không cho lên, tôi mới bảo sinh
viên cho Bác sĩ lên. Và sinh viên đã nghe tôi để Bác sĩ Liêm vội vã bước vội
lên tàu. Bác sĩ Liêm là Chủ tịch Hội Việt-Mỹ tại Nha Trang. Bác sĩ cùng với
Giáo sư Tôn Thất Hà có mở các lớp Anh văn đêm tại Trường Nam Tiểu học Nha Trang
mà tôi là một trong số giáo sư. Dù lệnh là chỉ dành cho gia đình quân nhân cơ
hữu của Trung Tâm, nhưng một vài sĩ quan vẫn “can đảm đột kích” lên tàu, trong
đó có Sĩ quan an ninh của Trung Tâm là Đại Úy Nguyễn Khánh, Y sĩ trưởng Trung
tâm là Bác sĩ Trương Cao Nghĩa. Chuyện nhà đoán được nhưng chuyện nước thì chịu
thua, nên cả hai vị phải chịu chung số phận của những người bại trận. Năm 1977
ngươì Việt tỵ nạn đọc báo thấy có bản tin của Việt Cộng đề cao kèm hình Bác sĩ
Nghĩa học tập tốt. Mười mấy năm sau, khi biết Bác sĩ Nghĩa cùng gia đình định
cư tại Pháp, tôi điện thoại thăm hỏi và đề cập bản tin này thì được Bác sĩ
Nghĩa cho biết là chúng bịa đặt tuyên truyền.9 giờ đêm 31-3-75, Đề đốc Châu ra lệnh hành
quân, nhưng mãi đến 10 giờ cả Trung Tâm mới bắt đầu di chuyển xuống Cầu Đá. Tôi
và Đại Úy Minh ngồi cùng xe Jeep với Chỉ Huy Phó Nguyễn Nam Thanh có Thượng sĩ
Thừa làm tài xế, nhưng sau đó tài xế lặng lẽ rời xe jeep. Khi tất cả quân nhân
Trung Tâm Huấn về tạm trú tại trại Yên Thế trước bệnh viện Grall thì mới biết
một số quân nhân cơ hữu đã tự đông ở lại. Sau này nghe nói chính Thượng sĩ Thừa
là người đứng ra lo chôn cất vợ chồng và hai con Trung Tá Hà Ngọc Lương dưới
bãi cát cạnh tượng Đức Thánh Trần trước Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân. Cầu Đá
lúc bấy giờ trông như bãi chiến trường với xác người và súng ống vứt bừa bãi
khắp nơi. Chiếc HQ 401 đậu cách cảng khá xa nên thật khó nhọc vất vả lắm mới
bám được thành tàu. Ngay cả Đại úy Nguyễn Văn Minh Minh và Hải Quân Thiếu Tá
Phan Như Hoàng (trưởng khối yểm trợ tiếp vận) vẫn bị rơi xuống nước, nhưng như
Tái Ông thất mã, cả hai lần bò lên bờ và được Đề Đốc Châu cho lên ngồi chung xe
Jeep để cùng đáp máy bay với Tướng Nguyễn Xuân Oánh về Sài Gòn trước. Cách nay
mấy năm, nhân dịp chị Mộng Lân tổ chức buổi họp mặt tiếp đón chị Hảo Thanh từ
Pháp sang tại nhà hàng Royal Seafood vào đêm 28-5-2006, tôi tình cờ lần đầu
tiên gặp lại Thiếu tá Hoàng sau hơn 31 năm không liên lạc.
Sau một đêm hải hành với gió tạnh sóng êm, tàu
ủi bãi tại Cát Lái thay vì phải ra Phú Quốc theo lệnh của Bộ Tổng Tham Mưu để
tránh thủ đô tràn ngập bởi quân dân từ miền Trung vào. Tại Sàigòn, năm sĩ quan
giảng viên chúng tôi trình diện Trung Tá Trịnh Đình Phi, Chỉ Huy Trưởng Trường
Sinh Ngữ Quân Đội, nhưng may mắn được phép tại ngoại, coi như “missing in
action”. Nhờ vậy nên tôi mới có thì giờ lo thu xếp gia đình lên đường “quy mã”
trên chiếc thương thuyền của Mỹ rời Tân Cảng đêm 24-4-75 trực chỉ Subic Bay của
Phi Luật Tân. Con tàu rộng lớn có sức chứa đến 2 ngàn người, nhưng nhìn qua lại
tôi đoán độ chừng chỉ vài trăm vì ít ai biết được cơ hội di tản dễ dàng này,
ngoài một số người trong đó có ân nhân của gia đình tôi là đồng nghiệp Nguyễn
Hữu Hoàng, cũng đã một thời biệt phái ra Trung Tâm HLHQNT. Tôi đã sang Mỹ hai
lần vào năm 1969 và 1972 để tu nghiệp về sư phạm. Lần thứ ba này ra đi không
hẹn ngày về. Từ bao lâu nay, tôi cố tìm nhưng không bao giờ biết Trung Tá Trịnh
Đình Phi định cư nơi nào để thăm hỏi và bày tỏ lòng biết ơn. Trong số năm giảng
viên biệt phái ra Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân, hai người đã mất cách nay trên
muời năm là Đại Úy Nguyễn Văn Minh và Đại Úy Nguyễn Đình An. Ba người còn lại
là Đại Úy Nguyễn Văn Phúc ở Oregon, Trung Úy Nguyễn Văn Giám ở Houston và tôi ở
Nam California. Tôi thật may mắn làm việc ngay tại quê nhà và hãnh diện đã phục
vụ chung với những quân nhân áo trắng và tự coi mình thuộc đại gia đình Hải
Quân, chỉ khác ở bộ quân phục màu vàng.
Nếu trước 1975, những sĩ quan Hải Quân là bông
hoa, là sườn cột của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, thì sau 1975, tại hải ngoại,
những chàng áo trắng đã không ngừng tranh đấu cho cộng đồng và quê hương đất
nước, tiêu biểu nhất có quý vị như Đinh Mạnh Hùng, Trần Văn Sơn, Trần Văn Tâm,
Trần Trọng Ngà, Nguyễn Đình Sài, Trần Trọng An Sơn, Nguyễn Toàn Vẹn, Võ Đại
Vạn…
Nhân đây tôi gởi lời thăm hỏi tất cả quân nhân
thuộc Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân Nha Trang cùng tất cả SVSQ các khóa 17 đến
26 mà tôi đã có cơ hội tiếp xúc, quen biết và làm việc chung trong tình huynh
đệ chi binh qua một thời gian trải dài từ đời Chỉ Huy Trưởng HQ Đại Tá Đinh
Mạnh Hùng, HQ Đại Tá Khương Hữu Bá, HQ Đại Tá Nguyễn Trọng Hiệp đến Đề Đốc Nguyễn
Thanh Châu.
Những sai sót về tên tuổi, thời gian cũng như
sự việc kể ra nếu có là do trí óc người viết lâu ngày bị rỉ sét. Mong quý chiến
hữu vui vẻ bỏ qua và hiểu dùm đây như chuyện người lính già ghi lại để hối tiếc
thời vàng son xưa.
No comments:
Post a Comment