Đặc San HQ 21

Đặc San HQ 21
Nha Trang Ngày Về Kỳ 9
Showing posts with label Sưu Tầm Lượm Lặt Đó Đây. Show all posts
Showing posts with label Sưu Tầm Lượm Lặt Đó Đây. Show all posts

Friday, December 28, 2018

SƯU TẦM

Những toa thuốc thiên nhiên

Mời quý vị tham khảo một đề tài rất hữu ích cho sức khỏe
Không có loại dược liệu nào trên đời này đem lại hiệu quả tốt hơn cho con người và không tốn kém như THUỐC THIÊN NHIÊN
Trong cuộc sống hàng ngày, con người không thể tránh khỏi mắc các loại bệnh từ bệnh nhẹ cho đến bệnh nặng. Tuy nhiên, khi bị bệnh mọi người đều nghĩ đến việc uống thuốc và hy vọng sẽ nhanh chóng khỏi bệnh, mà không bao giờ biết thay đổi thói quen sống của mình.
Thực tế có rất nhiều loại “thuốc” dưỡng sinh bảo vệ sức khỏe, so với việc uống các loại thuốc Đông, Tây,… thì loại “thuốc” này không hề có tác dụng phụ, và quan trọng là không mất bất cứ một đồng tiền nào.

1. “Thuốc” chống ung thư tốt nhất : Đi bộ
Đi bộ là phương pháp ngừa ung thư tốt nhất. “Đi bộ có thể được xem như một loại thuốc phòng ngừa ung thư hiệu quả!” Hiệp hội các tổ chức từ thiện Anh và Macmillan Cancer Aids đã cho rằng, nếu chúng ta có thể đi bộ 2km mỗi ngày hoặc đi bộ khoảng 20 phút sẽ giúp phòng ngừa ung thư vú, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư đại tràng. Hơn nữa có thể giảm nguy cơ tử vong tới 50%. Vì vậy, đi bộ là phương pháp ngừa ung thư tốt nhất.

2. “Thuốc” giúp sống lâu nhất : Cười
Tiếng cười có thể đẩy nhanh nhịp tim và cung cấp oxy cho não. Nhiều người cho rằng muốn sống lâu, cần ăn thực phẩm đại bổ như nhân sâm, nhung hươu. Tuy nhiên, tất cả không bằng một ha'nh động nhỏ chính là nở nụ cười. Theo một nghiên cứu của Tây Ban Nha cho rằng con người càng cười nhiều thì càng khỏe mạnh. Tiếng cười có thể đẩy nhanh nhịp tim và cung cấp oxy cho não.
Lisa Rosenberger, một nghiên cứu viên tại Trung tâm y tế Đại học Rush ở Chicago, nói rằng cười là một loại thể dục dưỡng sinh. Những người có tính hài hước sẽ có hệ thống miễn dịch khỏe mạnh, tỉ lệ bị nhồi máu cơ tim giảm khoảng 40% và tuổi thọ trung bình có thể tăng thêm 4 năm rưỡi.

3. “Thuốc” bảo vệ tim mạch tốt nhất : Ngồi thiền
Ngồi thiền có thể tăng cường chức năng của tim, thúc đẩy tuần hoàn máu. Ngồi thiền có thể tăng cường chức năng của tim, thúc đẩy tuần hoàn máu. Sau khi ngồi thiền một lúc, sẽ khiến những suy nghĩ của bạn chậm lại, giúp mọi người trấn tĩnh được cảm xúc, tâm tính được xoa dịu. Khi bạn không ngủ được, có thể ngồi bắt chéo chân để thiền định. Ngoài ra, ngồi thiền còn có lợi cho việc ngăn ngừa và điều trị đau khớp, hỗ trợ hệ thống hô hấp, rất hữu ích cho việc thở đều.

4. “Thuốc” chống lão hóa : Ngủ
Nên đi ngủ trước 23 giờ để vừa bao đảm sức khỏe tổng thể vừa giúp đẹp da, trì hoãn lão hóa. “Thuốc” này so với những mỹ phẩm đắt tiền có tác dụng hơn gấp nhiều lần. Các nghiên cứu đã cho rằng thời gian hoạt động của quá trình chuyển hóa tế bào biểu bì ở người là từ 10 giờ tối đến 2 giờ sáng ngày hôm sau.
Nếu chúng ta có thể bảo đảm giấc ngủ ngon trong thời gian này, chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình chuyển hóa và trì hoãn lão hóa da. Ngược lại, thức đêm nhiều sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tái sinh của tế bào, rút ngắn tuổi thọ của tế bào da, dẫn đến đẩy nhanh quá trình lão hóa da.
Chuyên gia kiến nghị, tất cả mọi người nhất định phải ghi nhớ đi ngủ trước 23 giờ để vừa bao đảm sức khỏe tổng thể vừa giúp đẹp da, trì hoãn lão hóa.

5. “Thuốc” chống mất trí nhớ tốt nhất : Chăm chỉ đọc sách
Đọc sách báo nhiều hơn chính là phương pháp tốt nhất để ngăn ngừa chứng mất trí nhớ. Một số nghiên cứu cho rằng, người có trình độ giáo dục càng thấp, sau này nguy cơ mất trí nhớ càng cao. Do vậy, nếu những đứa trẻ có nền giáo dục tốt thì có thể giúp phòng ngừa tình trạng sa sút trí nhớ trong tương lai.
Nếu người lớn tuổi cũng duy trì thói quen học tập, có thể bảo vệ chức năng nhận thức của bản thân. Vì vậy, đọc sách đọc báo nhiều hơn, mỗi ngày nỗ lực nhớ một vài cái mới xảy ra gần đây hoặc học tập để tìm hiểu kiến thức, khiến đại não luôn ở trạng thái vận động và học tập, đây chính là phương pháp tốt nhất để ngăn ngừa chứng mất trí nhớ.

6. “Thuốc” bổ sung canxi tốt nhất : Phơi nắng
Phơi nắng là phương pháp tốt nhất để bổ sung canxi. Phơi nắng có thể giúp cơ thể hấp thu được vitamin D, hơn nữa vitamin D giúp hấp thụ canxi vào xương tốt nhất. Canxi đi vào xương tham gia quá trình tạo xương, giúp cơ thể có vóc dáng "cân đối", săn chắc và vững chãi.

Đức Trí, M.D.

Trà Đậu Đen dưỡng thận


Hải Thượng Lãn Ông có nói trăm bệnh gốc từ tạng thận. Thế nên, chữa bệnh thận là chữa trăm thứ bệnh, thận mà khỏe thì bệnh tật tiêu tan.
Ngày nay, con người do lối sống không hiểu biết về dưỡng sinh nên đã làm thận khí suy nhiều. Các biểu hiện của thận khí suy như tiểu đêm, tiểu nhiều, tiểu dắt, tay chân lạnh….Hải Thượng Lãn Ông có nói trăm bệnh gốc từ tạng thận. Thế nên, chữa bệnh thận là chữa trăm thứ bệnh, thận mà khỏe thì bệnh tật tiêu tan.
Ngày nay, con người do lối sống không hiểu biết về dưỡng sinh nên đã làm thận khí suy nhiều. Các biểu hiện của thận khí suy như tiểu đêm, tiểu nhiều, tiểu dắt, tay chân lạnh…
Làm thế nào để dưỡng thận?
Đó là một câu hỏi khó, bởi dưỡng được thận là dưỡng được toàn thân. Chân khí hay tiên thiên khởi nguồn ở thận mà ra. Hay thận chủ tinh khí, thận chủ xương tủy.
ĐIỂM ĐẶC BIỆT VỀ ĐẬU ĐENDân gian và cả trong y thư có nói về một thứ rất hữu ích cho thận, có thể dưỡng thận và chữa một vài chứng bệnh nhẹ nhẹ.
Nói về tính vị công dụng và các bài thuốc thì trên mạng, sách vở nói nhiều rồi. Nhưng ở bài này, tôi nói thêm vài điểm ở khía cạnh âm dương.
Đậu đen được coi là âm (ly tâm), hàn lạnh. Nó được nói là qui kinh can thận vì có màu đen, tính thủy. Năng lượng của nó hướng xuống phía dưới, chìm. Tận dụng điều này mà người ta dùng đậu đen để dẫn hỏa xuống dưới làm ấm phần dưới hay ấm thận. Đó là vai trò của đậu đen mà các thứ khác không có được.
Vì nó có tính âm, mát nên nó được dùng như một cái vỏ đường để bao bọc lấy nhân bên trong là hỏa và mang cái hỏa đó đi sâu xuống dưới. Hỏa ở đây là một dạng năng lượng nóng, ấm có thể là từ gừng hoặc từ lửa. Nếu không có phần âm bao bọc thì hỏa đó sẽ làm hại và không thể dùng hay đi xuống dưới được, mà nó thành hư hỏa. Hiểu nôm na là bạn giấu hỏa vào trong đậu đen giống như giấu thuốc đắng vào một cái vỏ bọc đường vậy.
Thế nên, đậu đen rất lợi hại để chế biến.

LƯU Ý QUAN TRỌNG VỀ TRÀ ĐẬU ĐEN

Trà đậu đen rang làm trà là món rất quen thuộc và dễ làm, dễ dùng, nhiều người đang sử dụng. Nhưng làm thế nào để tốt nhất thì chưa chắc chúng ta đã biết. Chúng ta phải nắm được ưu nhược điểm của đậu đen và cách chế biến.

Điểm thứ nhất về tính vị

Trong y thư, các phương cách chế đậu đen thường là rang rồi chưng hay dùng với rượu, với gừng bởi vì đâu đen có tính hàn. Nếu không nắm được điều này thì vô tình chúng ta lại bệnh thêm. Nói chung nếu dùng phép rang, thì chúng ta cần rang cho đến khi cắn đôi hạt đậu thấy chuyển màu vàng sẫm mới đạt. Còn trong đông y người ta có thể sao đen hoặc sao non hơn nhưng dùng với rượu là thứ rất nóng. Và để an toàn (không gây lạnh) và có kết quả tốt hơn thì chúng ta cần phải khử bớt tính hàn. Việc rang cũng là một cách để khử hàn nhưng tốt hơn nên cho thêm gừng. Đậu đen phải có gừng. Khi chúng ta cho gừng vào, bạn có thể thấy dường như không còn cay vì đậu đen hút hết gừng.

Điểm thứ 2 là về cách chế biến.

Hầu hết chúng ta cứ nghĩ rang lên là được, cứ rang là được. Nói về vấn đề này nó hơi hàn lâm nhưng rất quan trọng. Đó là vấn đề hư hỏa trong các thức rang. Khi Trạng Down nói về hư hỏa cách đây 3 năm, rất nhiều người vào phản đối, ngay cả các bậc lão thành trong làng thực dưỡng cũng phản đối và cho rằng nó không tồn tại và rằng tôi huyên thuyên làm phức tạp hóa vấn đề. Để thấy rõ sự tồn tại của hư hỏa, các bạn làm cho tôi thí nghiệm này. Cho đậu đen vào lò vi sóng quay cho đến khi hạt đậu vàng thơm, đạt tiêu chuẩn là hạt rang, rồi sau đó đổ ra bát và để cho nguội. Bạn hãm đậu rang này và lấy nước uống và cảm nhận xem nó có nóng cổ, nóng ruột háo nước hay không. Háo nước là uống rồi vẫn không đã, vẫn muốn uống nữa vì vẫn thấy khát, mà uống nữa vẫn thấy khát. Để không bị vấn đề trên thì chúng ta cần phải biết khử hư hỏa.

Cả 2 vấn đề trên, người không trong nghề khó mà nhận diện và cảm nhận được. Cả 2 vấn đề trên thì hậu quả của nó không biểu hiện rõ ràng và ngay lập tức cho chúng ta thấy thế nên lại càng khó biết. Nó là vấn đề rất tai hại chứ không phải hại vừa.

Vậy thì làm thế nào để có một món trà đậu đen rang chuẩn và tốt. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu.

Tiêu chí để xét trà đậu đen rang có tốt hay không thì có vài điểm sau.

Thứ nhất uống vô phải thấy dễ chịu, thấy đã, không thấy háo nước, nóng cổ nóng ruột. Thứ 2, người bụng yếu không cảm thấy lạnh bụng hay không làm cho đại tiện ướt tã, không cảm thấy tay chận bị lạnh thêm.

CÁCH LÀM TRÀ ĐẬU ĐEN

1/ Đậu đen đãi sạch. 1kg đậu đen thì bạn cho thêm 100gram gừng tươi. Gừng rửa sạch rồi thái miếng mỏng cho vào nồi nước ninh cỡ khoảng 30p -45p để ra hết cay. Có thể ninh vào một nồi nhỏ rồi lát hòa vào nồi to. Chuẩn bị một nồi nước to để trần đậu đen. Với 1kg đậu đen bạn cho cỡ 1,5 lít nước.
2 / Đun sôi nồi nước này và pha nước gừng vừa đun vào. Chúng ta có một nồi nước gừng để trần đậu đen. Bạn có thể cho thêm 1 chút xíu muối vô cũng được. Một chút xíu muối này làm thận khoẻ hơn, có lực dương hơn chứ không hại gì hết. Thậm chí điều này là rất cần.
3 / Đổ đậu đen vào nồi nước gừng đang sôi, vừa đun vừa đảo cho đến khi cái da của hạt đậu nó nhăn nheo, nghĩa là nó mềm ra là được, hạt đậu bên trong vẫn cứng, chỉ có cái vỏ hạt là mềm thôi. Tùy loại đậu, nói chung khi đổ đậu vào đun sôi lăm tăm lại là được.
4 / Đem đậu ra phơi cho khô để rồi mang đi rang. Chảo hoặc nồi phải dầy và nên dùng chảo nồi gang (nhôm cứng), không rang nồi mỏng và cũng không nên dùng nồi inox. Nồi hay chảo phải dày cỡ 5mm thì mới không bị hư hỏa và không bị cháy. Rang lửa vừa phải, nhớ là dùng lửa, lửa củi hay lửa gas cũng được nhưng là lửa. Rang đến khi nào thấy thơm và cắn hạt đậu thấy giòn và màu vàng là được.
5 / Trước đó chuẩn bị dụng cụ để hạ thổ. Đại loại chúng ta kiếm 1 cái âu hay cái nồi gì đó thật dày và vừa với chỗ đậu đen rang đó, không được quá rộng, vì rộng thì bên trong có nhiều không khí thì không được. Vò một tờ giấy cho nhàu nhàu để làm lớp lót rồi đổ đậu vào, đậy thật kín và khít. Vì nóng gặp lạnh nên sẽ đổ mồ hôi nên sau khoảng 2 phút lại mở ra lau khô rồi lại úp vào. Nếu mà cái nồi hay âu mà mỏng quá thì nó sẽ nóng ngay và quá trình đổ mồ hôi không được nhiều. Vì thế mà kiếm được cái cối đá để mà hạ thổ thì tốt. Hoặc là người ta úp xuống nền gạch không tráng men có lót giấy rồi dùng cái gì đó đậy kín ở trên (cái nồi hoặc bát cũng được). Cũng thi thoảng mở ra lau khô mồ hôi. Sau khoảng 5 lần lau thì nước trong hạt đậu cũng được rút hết ra. Hạt đậu thực sự khô và thơm.
Vậy là xong, các bạn cất lọ kín dùng dần thôi. Cách pha tốt nhất là hãm nước trong bình hay phích giữ nhiệt chứ không nên ninh nấu trên lửa nhiều. Trà này hãm uống cả ngày cũng được và nó có rất nhiều tác dụng tốt nhất là về mùa nóng này đang cần bổ âm. Mỗi ngày dùng 30-50 gram đậu rang này hãm uống.
NHỮNG AI NÊN DÙNG TRÀ ĐẬU ĐEN

Trước hết những người có các chứng về thận như tiểu đêm, tiểu nhiều, tiểu dắt, tiểu vàng xót do nóng trong hoặc thậm chí là tiểu trong xõng do bị lạnh trong thì trà này giúp cần bằng trở lại.
Những người bị ngứa hay các chứng về ngứa có thể uống cái này. Ngứa do độc bên trong và cũng do phần âm bị hư hao, thường xảy ra mùa nóng.
Những người ăn thịt nhiều, uống rượu nhiều thì trà này làm mát.
Những người bị mỡ máu, cao huyết áp, tiểu đường…
Những người gầy, có thể đem nghiền đỗ này để làm bột uống rất tốt, có tính tăng cân cao. Nếu làm dạng bột để uống thì k cần rang hạt quá vàng. Người béo thì chỉ nên dùng dạng trà hãm lấy nước. Những người bị lạnh bụng, phân tã nát thì thêm gừng và rang già lửa hơn.

BÀI KẾT HỢP THÊM

Nếu kết hợp thêm với đậu đỏ nữa thì rất tốt. Cách chế biến đậu đỏ đơn giản hơn, chỉ cần đãi sạch trần qua nước sôi (không pha gì cả) rồi phơi, rang vàng, hạ thổ y như trên. Mỗi lần dùng thì cho nửa nọ nửa kia tổng là 30-50gram.
Kết hợp với cỏ mực (hay cỏ nhọ nồi). Hái cỏ mực đem rửa sạch, thái nhỏ, phơi khô sau đó sao vàng trên lửa than. Hằng ngày dùng khoảng 30g cây cỏ mực nấu chung với 40g đỗ đen rang cháy vừa chữa chứng thận hư suy mới bị. Đun hỗn hợp cỏ mực và đỗ đen sôi rồi chắt lấy nước uống như uống nước bình thường. Mỗi thang thuốc có thể nấu nhiều lần. Bài thuốc từ cỏ mực và đỗ đen phù hợp với mọi cơ địa, không hề lo lắng xảy ra tác dụng phụ.

TÁC DỤNG CỦA ĐẬU ĐEN

Công hiệu của hắc đậu lợi được thủy đạo, hạ được khí nóng ở trong dạ dày, tiêu được những thức ăn, trừ được gió độc, làm cho mát mẻ trong lòng, cho tâm thần được yên ổn, cho mắt sáng ra, cho mạch máu được lưu thông trơn chạy. Nó lại giải độc được đan thạch (sỏi), trục được thủy thũng (tích ứ nước), tiêu được chứng sưng, chỉ được chứng đau, giải được độc ô đầu và độc các thứ thuốc khác.
Nó chữa được hết thảy các chứng ung nhọt. Giã nhỏ ra mà đắp vào các chỗ đau. Thứ nào hạt nhỏ mà chắc là tốt. Tính nó sợ các thức sâm và long đảm thịt lợn (một số thứ có tính lạnh hàn), kỵ hậu phác. Nó được tiền hộ hạnh nhân, mẫu lệ và các thứ nước mật càng hay.
Trong sách nội kinh nói rằng: tính nó trục được chứng thủy trướng, chữa được chứng nóng ở trong dạ dày, hạ được ứ huyết, tiêu tan được những tích khối kết của 5 tạng.
Loại đậu này nhiều sách cổ Trung Hoa có viết: Ngoài bông cúc ra, đậu đen là loại thực phẩm dưỡng sinh tốt nhất để bổ mắt đến già vẫn đọc được chữ; hay sách Đông y đời Mãn Thanh ghi đậu đen tính hàn, vị cam (ngọt), sắc đen, chứa nước, hình dáng giống quả thận, nên có khả năng làm sáng mắt, lợi thủy, bổ thận, nhuận tâm, giải nhiệt, khu phong, hoạt huyết, giải độc, giảm đau, trừ chứng sưng phù. Dùng đậu đen giã nát hay đâm vụn, đắp lên chỗ sưng đau sẽ chóng lành.
Hay ăn đậu đen thường xuyên phòng được chứng ban trái.
Còn sách “Bản thảo bị yếu” viết: Đậu đen có đặc tính làm cho người già mắt yếu được sáng trở lại; có công hiệu bổ thận và điều hòa hệ thống tim mạch. Nhờ sử dụng đậu đen thường xuyên mà có cụ già trên 80 tuổi vẫn không phải đeo kính lão, lên xuống cầu thang không biết mệt, viết tay không run. Táo bón nhờ đậu đen làm nhuận tràng, đại tiện trở lại bình thường…

Sách “Thọ thân dưỡng lão tân thư” viết: Lý Mỗ tiên sinh mỗi sáng thức dậy nuốt 27 hạt đậu đen tròn; đến nay đã già nhưng mắt vẫn tỏ, tai vẫn thính như tuổi thanh xuân. Sách “Dưỡng lão càn thư” của Huy Thân viết: “Mỗi sáng nuốt 49 hạt đậu đen xanh lòng, suốt đời sáng mắt, thính tai, đen tóc, tiêu mụn nhọt”…
Tham khảo thêm về công dụng và các phương thang đơn giản hiệu nghiệm trong đó có cách chế đậu đen để chống nạn đói nếu xảy ở bài Toàn Tập Về Đậu Đen. Qua đấy các bạn cũng hiểu phần nào về món Arura mà thành phần chính là đậu đen và vừng đen được chế biến công phu.

Rạp hát cải lương đầu tiên ở Việt Nam

Cải lương đã có trên dưới trăm năm rồi, người dân Nam Bộ ai ai cũng từng nghe những bản cải lương, thậm chí còn ca mùi mẫn một câu cải lương.Từ con nít tới người già, ai cũng nhớ một sớ nghệ sĩ cải lương tài danh mà mình yêu thích. Nhưng mấy ai biết rạp hát cải lương đầu tiên ở Việt Nam là rạp nào? Ở đâu? Do ai dựng nên?Đó chính là rạp Thầy Năm Tú ở Mỹ Tho. Rạp Thầy Năm Tú hiện nay vẫn còn được gìn giữ ngay trung tâm TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang với tên gọi mới là rạp Tiền Giang.Thầy Năm Tú là ai?Xưa nay các tài liệu về lịch sử cải lương đề cập đến thầy Năm Tú không nhiều, chủ yếu là lướt qua vì “người ta tìm hiểu sâu về đào, kép chứ ít có ai ghi chép về các bầu gánh”. Cũng vì vậy mà tài liệu từ trước đến nay đều không có thông tin gì về năm sinh, năm mất của thầy Năm Tú. Thậm chí nhiều tài liệu chỉ lướt qua vài dòng rồi chuyển đề tài sang nói về đào, kép nổi danh lúc đó như Năm Phỉ, Bảy Nam...Thầy Năm Tú, (Pièrre Châu Văn Tú) tên thật là Châu Văn Tú,là một nhà tư sản ở Mỹ Tho xưa. Năm 1918, ông xây dựng tại chợ Mỹ Tho một rạp mang tên Cinéma Palace, còn gọi là rạp Thầy Năm Tú (sau này đổi tên là rạp Vĩnh Lợi rồi rạp Tiền Giang). Hiện nay rạp Thầy Năm Tú đang nằm tại đường Lý Công Uẩn, phường 1, TP. Mỹ Tho.Thầy Năm Tú là đồng hương của GS.TS Trần Văn Khê, tức ở làng Vĩnh Kim, Mỹ Tho. Có người gọi ông là Pierre Tú vì ông có quốc tịch Pháp, có vợ là cô Tám Hảo (em ruột cô Năm Thoàn là đào hát của gánh hát thầy Năm Tú). Ông là người hào hoa phong nhã, cũng là người Việt đầu tiên mua chiếc xe hơi tại nước Việt.Rạp hát Thầy Năm tú.Thầy Năm Tú lập gánh hát chơi chứ không chú trọng nhiều về mặt kinh doanh và sống với anh em nghệ sĩ rất tốt. Ông sắm cho gánh một chiếc ghe rất lớn, đào kép có thể ăn ở, tập tuồng ngay trong ghe. Năm 1922 ông đem gánh hát lên Sài Gòn biểu diễn tại Chợ Lớn. Ông còn có sáng kiến giới thiệu đào kép bằng cách cho đào kép ra chào khán giả trước khi biểu diễn.Năm 1922, gánh hát của thầy Năm Tú thành công nhất, thu hút được nhiều diễn viên nổi tiếng bấy giờ như Sáu Nhiêu, Tám Danh, Phùng Há, Năm Châu… Gánh hát Thầy Năm Tú thường diễn tuồng Kim Vân Kiều (của Nguyễn Công Mạnh), Trưng Nữ Vương (của Đặng Thúc Liêng), Trang Châu mộng hồ điệp, Mộc Quế Anh dưng cây, Tội của ai (của Năm Châu)… Mỗi tuần gánh hát Thầy Năm Tú diễn tại Mỹ Tho 3 đêm, diễn ở rạp Eden (Chợ Lớn) 3 đêm và nhiều nơi khác.Rạp Thầy Năm Tú tương đối hiện đại, dành riêng cho nghệ thuật cải lương, có sân khấu rộng và cao, được bố trí ròng rọc để thay đổi phông màn, hai bên có nhiều lớp cánh gà. Rạp có hai tầng ghế ngồi. Tầng dưới có hàng trăm ghế đủ 4 hạng: thượng hạng, hạng nhất, nhì và ba. Trên lầu là sàn gỗ chắc chắn cũng bố trí ba hạng ghế: nhất, nhì, ba. Còn hai bên chia thành từng ngăn và bốn ghế đẹp dành cho khách đặc biệt.Và cũng chính tại rạp hát này, công chúng lục tỉnh Nam kỳ đã được xem vở cải lương đầu tiên vào tối 15-3-1918.Vở cải lương đầu tiênThầy Năm Tú khi lập gánh hát, phối hợp tất cả những tiết mục ca ra bộ ăn khách trong một buổi diễn và sau đó thầy thấy rằng, nội dung các bài ca ra bộ không cùng đi với nhau nên thầy nhờ một nhà Nho là ông Trương Duy Toản, người đã từng tham gia phong trào Đông Du đứng ra làm thầy tuồng và đặt những vở tuồng đầu tiên theo tích của “Kim Vân Kiều”.Tuồng hát Kim Vân Kiều được chọn làm tuồng khai trương đúng vào ngày sinh nhật của chủ nhân gánh hát Thầy Năm Tú Mỹ Tho là ngày 15-3-1918. Đây là đêm lễ hội tưng bừng của Mỹ Tho. Ghe thuyền của dân lục tỉnh đặc kín sông Bảo Định. Thiên hạ đen nghẹt, xô đẩy giành nhau mua vé.Nhờ có rạp hát khang trang và chương trình đầy đủ, tụ họp được nhiều đào kép danh tiếng: Tám Danh (Nguyễn Phương Danh), Ba Du, Bảy Thông, Phùng Há, Năm Phỉ, Năm Thoàn… nên hãng Pathé Phono bằng lòng ghi âm lại những bài ca cải lương và có khi ghi cả tuồng với câu mở đầu: “Bạn hát của thầy Năm Tú, ca cho hãng Pathé Phono nghe chơi”.Đĩa hát Pathé PhonoThầy Năm Tú cũng cho làm máy hát tại Việt Nam, để hình con chó ngồi nghe và trên dĩa hát có hình con gà màu đỏ, sau đó đem bán khắp nơi. Nhờ vậy mà hát cải lương vừa mới thành hình đã được đĩa hát phổ biến rộng rãi khắp thôn quê.Mặc dù thầy Năm Tú không phải là một kép hát, nhưng thầy có công xây dựng một rạp hát đầy đủ phương tiện, là một cơ ngơi xứng đáng cho những buổi diễn lớn. Ông lại có công gắn liền tên gánh hát của mình vào dĩa hát Pathé Phono và đã phổ biến lối hát cải lương vào những nơi hẻo lánh; Đồng thời tạo điều kiện cho những đào kép giỏi có chỗ hành nghề, xây dựng tên tuổi. Những việc làm của ông đã đóng góp một phần quan trọng để quảng bá cải lương.

Theo An nhiên , tạp chí sân khấu

Tiếng Việt Tuyệt Vời

Phải nói là bái phục bài thơ lạ kỳ này. Bài thơ được chia sẻ từ nhà nghiên cứu Dân tộc học và Việt học Đinh Trọng Hiếu ở Paris đăng trên "Khuôn Mặt Văn Nghệ".
Không biết tác giả là ai, nhưng khi đọc bài thơ này ta vô cùng khâm phục tác giả của bài thơ, càng thêm yêu quý và càng phải giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt. Vậy mà có kẻ bày ra thứ trò cải tiến nhảm nhí và muốn phá hoại chữ nghĩa của bao thế hệ tổ tiên để lại.
Bây giờ ta hãy chiêm ngưỡng vẻ độc đáo của bài thơ này :
1. Bài thơ gốc:
Ta mến cảnh xuân ánh sáng ngời
Thú vui thơ rượu chén đầy vơi
Hoa cài giậu trúc cành xanh biếc
Lá quyện hương xuân sắc thắm tươi
Qua lại khách chờ sông lặng sóng
Ngược xuôi thuyền đợi bến đông người
Xa ngân tiếng hát đàn trầm bổng
Tha thướt bóng ai mắt mỉm cười.
2. Đọc ngược bài gốc từ dưới lên :
Cười mỉm mắt ai bóng thướt tha
Bổng trầm đàn hát tiếng ngân xa
Người đông bến đợi thuyền xuôi ngược
Sóng lặng sông chờ khách lại qua
Tươi thắm sắc xuân hương quyện lá
Biếc xanh cành trúc giậu cài hoa
Vơi đầy chén rượu thơ vui thú
Ngời sáng ánh xuân cảnh mến ta.
3. Bỏ 2 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc,
(Sẽ có một bài ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng) :
Cảnh xuân ánh sáng ngời
Thơ rượu chén đầy vơi
Giậu trúc cành xanh biếc
Hương xuân sắc thắm tươi
Khách chờ sông lặng sóng
Thuyền đợi bến đông người
Tiếng hát đàn trầm bổng
Bóng ai mắt mỉm cười.
4. Bỏ 2 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, đọc ngược từ dưới lên, ta sẽ được bài (ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng) :
Mắt ai bóng thướt tha
Đàn hát tiếng ngân xa
Bến đợi thuyền xuôi ngược
Sông chờ khách lại qua
Sắc xuân hương quyện lá
Cành trúc giậu cài hoa
Chén rượu thơ vui thú
Ánh xuân cảnh mến ta.
5. Bỏ 3 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc :
Ta mến cảnh xuân
Thú vui thơ rượu
Hoa cài giậu trúc
Lá quyện hương xuân
Qua lại khách chờ
Ngược xuôi thuyền đợi
Xa ngân tiếng hát
Tha thướt bóng ai.
6. Bỏ 3 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc, ta đọc ngược từ dưới lên :
Cười mỉm mắt ai
Bổng trầm đàn hát
Người đông bến đợi
Sóng lặng sông chờ
Tươi thắm sắc xuân
Biếc xanh cành trúc
Vơi đầy chén rượu
Ngời sáng ánh xuân.
7. Bỏ 4 chữ đầu mỗi câu trong bài gốc :
Ánh sáng ngời
Chén đầy vơi
Cành xanh biếc
Sắc thắm tươi
Sông lặng sóng
Bến đông người
Đàn trầm bổng
Mắt mỉm cười.
8. Bỏ 4 chữ cuối mỗi câu trong bài gốc, ngược từ dưới lên :
Bóng thướt tha
Tiếng ngân xa
Thuyền xuôi ngược
Khách lại qua
Hương quyện lá
Giậu cài hoa
Thơ vui thú
Cảnh mến ta ./
_____
Sưu tầm

MẸ CHỈ CÓ MỘT THÔI

Đứa nể vợ , đứa sợ chồng
Mặc cho mẹ sống mà không đoái hoài .
Sinh con đầy đủ gái trai
Trẻ thì cơ cực cứ nai lưng làm.
Giờ con khôn lớn giàu sang
Vậy mà mẹ chẳng an nhàn tấm thân.
Tuổi cao sức khỏe yếu dần
Nói năng lú lẫn tay chân vụng về .
Cháu con chúng nó cứ chê
Đẩy như quả bóng không hề muốn nuôi
Tuổi già ở một mình thôi
Cơm niêu nước lọ ,một nồi một mâm.
Thỉnh thoảng con cháu hỏi thăm
Đôi khi cũng biếu được dăm ba đồng .
Ốm đau chăm sóc kể công
So bì tỵ nạnh chỉ mong rạch ròi...!
Mẹ chỉ có một trên đời
Sống không phụng dưỡng chết rồi khóc chi.
Giỗ to thử hỏi ích gì
Nhắc ai còn mẹ khắc ghi tạc lòng .
Vô Danh





Thơ Bùi Giáng

Ta cứ tưởng Trần Gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ !
Ta cứ ngỡ xuống Trần chỉ một chốc
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay !
Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay
Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai ?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi
Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen
Ta là cát ta sẽ về với bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!
- Bùi Giáng -

 Kỳ Huyệt Chữa Đau Nhức Xương Khớp

Tác giả Phan Vũ Bình - phòng khám bệnh CHÂN NHƯ ( Đông y- y học cổ truyền)

Đến một tuổi nào đó cơ thể con người sẽ phải lão hoá như một cổ máy xử dụng nhiều năm , ốc vít lờn , mòn , rơ hết, lỏng lẻo, hehe....ai bị đau nhức xương khớp khi mùa đông đến, khi trái gió trở trời , hoặc chằng cứ mùa nào, nắng mưa bất kể, xương khớp cũng đau..... quý bạn lão niên thử áp dụng chơi, cũng chẳng hại gì.....hehe........
Kỳ Huyệt Chữa Đau Nhức Xương Khớp
Thiên địa có tứ tượng là kim mộc thủy hỏa, tứ tượng xoay tròn vận động mà tạo thành bốn mùa trong năm. Sáu tháng đầu năm thì dương khí thượng thăng, sáu tháng cuối năm thì âm khí hạ giáng, âm dương thăng giáng, tạo thành tuần hoàn. Hiện tại, tiết lập thu vừa qua, thời tiết bắt đầu trở nên mát mẻ dần. Xuân sinh hạ trưởng thu thu đông tàng, bước vào mùa thu, đây là thời điểm vạn vật đi vào giai đoạn “thu liễm”. Thiên nhân hợp nhất, khí cơ trong thân thể chúng ta cũng tương ứng với khí cơ của thiên địa, bắt đầu thu liễm lại. Đây chính là thời điểm phát sinh rất nhiều bệnh tật, nhất là những vấn đề về hô hấp và xương khớp.
Mấy hôm nay Bình nhận được khá nhiều tin nhắn hỏi cách điều trị các chứng đau nhức xương khớp. Nhân tiện hôm nay rảnh, nên viết một bài chia sẻ tới mọi người một kỳ huyệt để chữa đau nhức xương khớp.
Vì sao mình gọi là kỳ huyệt. Vì không quan trọng đau vị trí nào, cứ hễ liên quan tới xương khớp, từ đau vai, đau cổ gáy, đau lưng cho tới đau đầu gối hay gót chân,… hầu như cứ dùng tới nó là sẽ thấy ngay hiệu quả. Bệnh nhân bị ngã xe đau vai tay không giơ lên được, ấn huyệt này sau 2 phút giơ lại như thường; bệnh nhân bị đau mỏi cổ vai gáy xoay cổ khó khăn, ấn một lúc cổ vai gáy nhẹ nhàng ngay; bệnh nhân bị đau lưng, ấn một lúc đỡ được 50%; bệnh nhân bị đau gót chân đi lại khó khăn, ấn vào đau nhói không chịu được, nhưng ấn xong đi lại gần như bình thường,
Nói thì chắc mọi người không tin vì nó quá đa năng, nhưng đó là những kết quả mình điều trị trên hàng trăm bệnh nhân của mình, và mình chỉ dùng huyệt này để điều trị. Thời mình mới học thì cũng hơi ngỡ ngàng, vì huyệt này nó quá kì diệu, cứ đau nhức xương khớp ấn vào kiểu gì cũng thấy hiệu quả, không giải thích nổi. Sau này có điều kiện học sâu hơn mới vỡ ra cái lí của nó, mới hiểu được tại sao nó lại kì diệu như vậy, mới thực sự khâm phục trí tuệ của tiền nhân chúng ta.
Vậy huyệt này là huyệt gì mà nó kì diệu như vậy. Thực ra huyệt này không có tên gọi, còn mình thì hay gọi nó bằng cái tên thân thương là Huyền Cốt huyệt.
Vị trí: nằm trên chỗ lõm của đường cong tóc mai (như hình vẽ)
Công dụng: điều trị các chứng đau nhức xương khớp như đau cổ vai gáy, đau lưng, đau gót chân,..
Cách ấn: ngày ấn 3 lần sáng trưa tối, mỗi lần ấn từ 1-2 phút. Ấn đủ lực sao cho có cảm giác hơi đau. bấm một bên ạ , nam bên trái, nữ bên phải
Lưu ý là những ai bị đau nhức xương khớp, nhất là đau cổ vai gáy, ấn vào huyệt này nó sẽ rất đau, đau nhói luôn. Nhưng không sao, cứ ấn đều đặn thì nó sẽ bớt đau dần. Và ấn vào thấy nó bớt đau đi bao nhiêu thì có nghĩa rằng bệnh cũng mình đang đỡ đi bấy nhiêu. Đấy chính là sự kì diệu của cơ thể chúng ta. Còn trường hợp bệnh đã mãn tính quá lâu ngày thì mọi người cứ kiên trì áp dụng đều đặn mỗi ngày, sẽ thấy bệnh của mình chuyển biến từng ngày. Và một điều nữa, huyệt này cực kì an toàn, mình đã ứng dụng suốt mấy năm nay và đều thấy cực kì hiệu quả, nên mọi người cứ yên tâm áp dụng nhé.
Đôi lời chia sẻ, hi vọng hữu ích với mọi người. Chúc mọi người ngày mới an lạc và nhiều niềm vui.
(Bài viết không giữ bản quyền, hoan nghênh copy chia sẻ).
Tác giả Phan Vũ Bình - phòng khám bệnh CHÂN NHƯ ( Đông y- y học cổ truyền)
Do có nhiều người hỏi bấm huyệt bên nào , nên mình thêm sau khi dọc commented của lương y trẻ Phan Vũ Bình " bấm một bên ạ , nam bên trái, nữ bên phải " .

Tiên Dược Cứu Bịnh Tiền Liệt Tuyến. 

Thăm hỏi các cụ già, thỉnh thoảng có cụ đi tiểu khó khăn, đi tiểu lắc nhắc nhiều lần, có khi bị bí đái luôn. Phải đi bác sĩ chuyên về Niệu khoa để xoi cho thông, đặt ống, hay giải phẩu tuyến tiền liệt (prostate) bị sưng lớn cản trở đường dẫn nước tiểu từ bàng quang ra. Bí tiểu cũng là chuyện rất khẩn cấp.
Nếu không kịp gặp bác sĩ thông cho cũng có thể tử vong. Để ý tìm hiểu về việc nầy, tôi có đọc được một bài viết của cư sĩ Thái Huệ Sơn, thấy hấp dẫn và biết đâu một ngày nào chính mình hay ai đó có thể cần đến, nên tôi trích đăng vào đặc san nầy để các cụ khi cần thì dở ra tham khảo và áp dụng. Trích đăng chứ không thêm bớt, khi nào dùng thì nghĩ cũng nên tham khảo với các thầy thuốc Bắc chân chính.
BBT.
Sau đây là bài viết của tác giả Thái Huệ Sơn:
Tôi xin thuật lại cho bạn đạo nghe một chuyện khó tin mà có thật: Đầu năm 1990, tôi còn ở Saigon, được chính quyền CS cấp hộ chiếu (passport) cho cả gia đình sang định cư bên Mỹ theo diện HO. Lúc xong mọi thủ tục đợi ngày đăng ký chuyến bay lên đường, thình lình tôi bị cảm sốt. Tôi uống thuốc cảm hai ngày, cơn sốt không thuyên giảm mà lại biến chứng sang bí đái. Thế rồi bọng đái lói tức và sưng to lên như quả dừa. Tôi vội vàng đi khám bác sĩ chuyên môn về thận và đường tiểu. Bác sĩ Nam lên án bệnh tôi là u xơ tiền liệt tuyến (ulcère de la prostate), nên trị cho tôi bằng nhiều thứ thuốc trụ sinh. Qua nhiều ngày trị liệu, bệnh không thuyên giảm mà lại còn hành thêm.
Đường tiểu bế tắc hoàn toàn, cơn sốt không giảm. Tôi đi rọi quang tuyến X và siêu âm, kết quả vẫn là chứng u xơ tiền liệt tuyến.
Tôi đến bác sĩ chuyên khoa về thận và đường tiểu khác, bác sĩ Hùng, ông khuyên tôi nên đi vào bệnh viện giải phẩu gấp, nếu không thì sẽ nguy đến tính mạng. Tôi yêu cầu bác sĩ Hùng đút ống thông (sonde) lấy nước tiểu ở bọng đái ra. Nước tiểu lấy ra 2 lít rất hôi tanh. Làm sondage rồi tôi thấy dễ chịu, bớt sốt, nhưng vẫn còn bí đái và đau thốn bàng quang. Ngoài Âu dược uống vào liên tiếp, tôi còn áp dụng ngoại khoa châm cứu và đủ thứ thuốc Nam do thân nhân, bạn bè bày biểu, nhưng đường tiểu vẫn bế tắc. Hằng ngày tôi phải đến Bác sĩ Hùng làm sonde một lần để lấy nước tiểu ra. Bác sĩ Hùng đặt cho tôi một dụng cụ mang luôn vào mình để mỗi lần mắc tiểu mở nắp ra, khỏi phải làm thông thường xuyên, sợ trầy trụa trong ống dẫn nước tiểu và nhiểm trùng bàng quang. Dụng cụ đó gây cho tôi sự bực bội khó chịu, nên tôi gỡ ra. Hơn nửa tháng trời mà bịnh vẫn trầm trọng, tôi đành phải tính việc đi vào giải phẩu bệnh “u xơ tiền liệt tuyến”, để xin giúp đở nhập viện.
Bác sĩ Trí thấy tôi sắp gần ngày đi Mỹ, nên khuyên tôi rằng: “Bác nên đợi sang Mỹ rồi sẽ mổ, ở Việt Nam chẳng những thiếu thuốc men, mà hậu quả không bảo đảm cho bằng khoa giải phẩu tối tân ở nước ngoài. Vậy cháu cho bác một loại ống thông để bác về nhà mỗi ngày tự làm sonde lấy 2 lần hầu cầm cự đợi ngày đi Mỹ. Ngoài ra bác cứ uống thuốc liên tiếp may ra bệnh sẽ thuyên giảm. Tôi áp dụng theo lời chỉ dẫn của bác sĩ Trí, tự làm thông lấy 2 lần để cầm cự. Bịnh không hành hung nhưng đường tiểu vẫn bế tắc. Cùng đường tuyệt vọng, tôi van vái Trời Phật. Bỗng nhiên một đêm nọ tôi hồi nhớ lại thầy tôi đã dạy khi xưa như sau:
-Tao cho mầy toa thuốc chủ trị bịnh “thận hư khí suy” để sau khi có bịnh lấy ra mà dùng,đừng lạm dụng thuốc tây mà nguy đến tính mạng. Ngày biên toa thuốc và còn có ký tên vào đó. Việc đó xảy ra năm 1942, gần 50 năm sau tôi mới nhớ. Tôi bèn lấy toa thuốc dể trên bàn thờ van vái.
Sáng hôm sau tôi bảo vợ ra tiệm thuốc bổ luôn 3 thang đem về sắc cho tôi uống. Uống liên tiếp trong 3 đêm. Bỗng nhiên đêm nọ, khi mắc tiểu tức lói ở bọng đái, tôi đi tiểu tiện, thì tự nhiên đường tiểu thông trở lại. Tôi mừng quá, chẳng khác nào một cơ sở đóng cửa nghỉ việc lâu ngày, nay mở cửa hoạt động trở lại. Tôi mừng quá nhưng chưa dám vội tuyên bố. Hôm sau tôi bảo vợ hốt luôn 4 thang nữa về sắc cho tôi uống. Uống đủ 7 thang thì lành bịnh, sức khỏe phục hồi gần như bình thường. Tôi tuyên bố cho vợ tôi biết: Tôi được thuốc tiên mà qua khỏi cơn tử bịnh. Cả nhà tôi đều vui mừng hơn được vàng.
Tiếng đồn vang ra, bà con lối xóm tới thăm hỏi. Tôi thuật lại tự sự. Ai cũng lấy làm lạ và xin tôi sao ra cho toa thuốc dể dành hộ thân, nhưng phải phóng ảnh để lấy được chữ ký của thầy tôi.
Tôi đến các bác sĩ chữa trị để báo tin bịnh tôi đã khỏi, không cần phải giải phẩu.
Họ đều ngạc nhiên. Có người lại nói:
“C’est incroyable”. (Thiệt không thể tin được)
Thật là khó tin mà là sự thật.
Khi tôi sang Mỹ rồi, vợ tôi gởi thư qua cho biết, có nhiều bạn đạo bị bịnh sạn thận, bí đái, bịnh viêm mũi, bịnh suy nhược, đến xin toa về uống, linh nghiệm phi thường. Hầu như toa thuốc trị bá bịnh, ai cũng cho là thuốc tiên.
Tôi nghĩ lại, người tu hành mà bị giải phẫu thì về sau khó tu lắm là vì cơ thể đã bị thương tổn rồi. Tôi nghĩ thương cho thân tôi, tôi nghĩ đến các bạn già như tôi, nếu gặp phải chứng bịnh như tôi mà phó thác cho Tây Y, lên bàn mỗ thì khổ biết bao, cho nên tôi viết ra bài nầy, và đăng lên bài thuốc tiên đã cứu bịnh cho tôi, để quí bạn đạo tùy nghi sữ dụng khi cần. Toa thuốc nầy chuyên trị về bệnh « suy thận, hư khí »
Và các biến chứng của nó. Kính mong giúp ích được phần nào cho quí bạn.
Toa thuốc bổ khí bổ thận:
-1. Thục địa 3 chỉ
-2. Hoài Sơn 3 chỉ
-3. Trạch tả 3
-4. Đơn bì 2
-5. Táo Ngọc 2
-6. Phục linh 2
-7. Hắc Đổ trọng 3
-8. Ngưu tất 3
-9. Bạch truật 2
-10. Ngọc thung dung 3
-11. Táo nhơn 4
-12. Viễn chí 2
-13 Quảng bì 3
-14. Ngươn nhục 3
-15 Đản sâm 3
-16. Phấn thảo 2
-17. Câu kỷ 3
-18. Xích kỳ 2 chỉ.

Uống thuốc cho đúng

January 31, 2017
BS. Hồ Ngọc Minh

LTS: Bác Sĩ Hồ Ngọc Minh được biết trong cộng đồng người Việt nhiều năm qua với chuyên khoa về hiếm muộn, vô sinh, và lựa chọn trai gái theo ý muốn. Ông đã từng làm nghiên cứu về bệnh hiếm muộn, và các bệnh ung thư của phụ nữ tại National Cancer Institute trực thuộc National Institutes of Health. Bác Sĩ Minh là Board Certified về Obstertrics, Gynecology và Reproductive Endocrinology Infertility. Phòng mạch tọa lạc trong khuôn viên bệnh viện Fountain Valley, tại 11180 Warner Ave., Suite 465, Fountain Valley, CA 92708. Số phone liên lạc: (714) 429-5848, trang nhà: www.bacsihongocminh.com
Mỗi lần viết toa cho bệnh nhân, bác sĩ thường dặn dò không những về liều lượng, số lần uống thuốc trong ngày, thời điểm uống thuốc: buổi sáng hay buổi tối, bụng đói hay bụng no, và có nên cử những thức ăn hay những loại thuốc nào khác hay không.
Thoạt đầu thì có vẻ rối rắm, cũng may là hầu hết các thuốc đều có thể uống lúc nào cũng được, không đòi hỏi cầu kỳ, ngoại trừ một số thuốc cần lưu ý.
Trước nhất, đa số các thuốc có thể uống khi bụng đói, miễn là uống với nhiều nước, trừ một số thuốc cần phải uống bụng no vì những lý do sau đây:
1. Để giảm phản ứng phụ có thể gây ra nôn mửa, thí dụ như thuốc trị bệnh gout allopurinol, thuốc giảm căng sữa và trị bướu não bromocriptine, thuốc trụ sinh doxycyclin.
2. Để tránh phản ứng phụ gây ra xót, hay loét bao tử, thí dụ như các loại thuốc giảm đau aspirin, NSAIDS ibuprofen, thuốc steroids chống viêm sưng như prednisone dexamethasone.
3. Các loại thuốc trị bệnh bao tử, ợ chua, ăn không tiêu cần uống trước khi ăn.
4. Một số thuốc chữa trị bệnh về bệnh lở loét răng miệng, ống thực quản, cần uống sau khi ăn, vì nếu uống trước khi ăn, thuốc sẽ bị thức ăn đẩy xuống ruột non mau chóng,
5. Một số thuốc chữa bệnh HIV, ritonavir, saquinavir và nelfinavir cần uống vói thức ăn thì thuốc mới thấm vào máu hữu hiệu,
6. Thuốc trị bệnh tiểu đường cần uống với thức ăn để có thể có thể thấm đường vào máu.
Nói là uống thuốc khi bụng no nhưng thật ra không cần bụng phải no lắm; một vài miếng bánh mì, một ly sữa cũng đủ khi uống những loại thuốc cần phải có đồ ăn.
Mặt khác, như thủy triều lên xuống trong ngày, cơ thể của chúng ta cũng thay đổi theo một nhịp điệu tương tự gọi là circadian rhythm. Tùy theo thời điểm trong ngày, một số hormones hay một số cơ phận sẽ hoạt động tích cực hơn. Cũng vì thế, các loại thuốc men có tác dụng vào nhịp điệu tuần hoàn của cơ thể sẽ có hiệu ứng tốt hơn khi được sử dụng đúng theo thời điểm, buổi sáng hay buổi tối.
Một số thuốc cần uống buổi sáng trước bữa điểm tâm gồm có:
1. Thuốc có chất sắt, trị bệnh thiếu máu cần uống bụng đói với một ly nước cam. Vitamin C có tính acid giúp cho chất sắt thấm vào bao tử nhanh hơn.
2. Thuốc trị bệnh cao huyết áp nên uống sáng sớm khi mới thức dậy, vì áp suất máu thường tăng vào buổi sáng.
3. Thuốc trị bệnh suy tuyến giáp (hypothyroidism), cần uống bụng đói, và không nên uống chung với các thuốc khác kể cả thuốc bổ multivitamin.
4. Các thuốc trị bệnh rỗng xương cần uống buổi sáng, bụng đói.
Một số thuốc khác nên uống sau khi ăn sáng:
1. Thuốc bổ sẽ thấm vào máu dễ dàng hơn vì có chất béo trong đồ ăn. Hơn nữa, thuốc bổ uống buổi sáng giúp cho cơ thể… tươi mát hơn trong ngày.
2. Các loại thuốc trị dị ứng vì các triệu chứng dị ứng thường xảy ra buổi sáng.
3. Các loại thuốc cung cấp vi khuẩn tốt cho cơ thể, probiotics.
Các loại thuốc sau đây có thể uống trước buổi trưa:
1. Thuốc trị bệnh nhức mỏi, phong thấp để tránh nhức mỏi trong ngày
2. Thuốc lợi tiểu, diuretics, vì nếu uống buổi tối sẽ phải thức dậy đi tiểu qua đêm làm mất ngủ.
Cuối cùng buổi tối sau khi ăn:
1. Thuốc trị bệnh cao cholesterol. Nên nhớ 70% cholesterol sản xuất ra bởi lá gan, vào buổi tối. Thuốc giảm cholesterol khống chế sự sản xuất cholesterol nên phải uống vào buổi tối.
2. Các loại thuốc cần phải uống thêm lần thứ hai hay lần thứ ba theo toa bác sĩ.
3. Thuốc ngủ.
Xin lưu ý, một số thuốc cần phải uống đúng giờ mỗi ngày thí dụ như thuốc ngừa thai.
Ngoài ra, một số thuốc có tác dụng phụ khi uống chung với nhau, cẩn thận hơn hết là không nên uống chung với nhau mà chia ra cách nhau độ một tiếng. Thí dụ như thuốc trụ sinh và thuốc ngừa thai.
Thức ăn cần kiêng cử khi uống thuốc gồm các thí dụ sau đây:
1. Trái bưởi hoặc nước bưởi có thể làm có thể làm tăng nồng độ máu của một số thuốc trị bệnh tim mạch, hay thuốc giảm cholesterol statins.
2. Khi uống thuốc loãng máu warfarin thì nên tránh ăn các loại rau cải lá màu xanh có nhiều vitamin K.
3. Còn khi uống thuốc trị bệnh cao huyết áp ACE inhibitors thì nên tránh ăn chuối. Trong chuối có nhiều chất potassium khi dùng với thuốc ACE inhibitors co thể làm rối loạn nhịp đập của trái tim
4. Khi uống thuốc trụ sinh thì không nên uống sữa hay các thực phẩm biến chế từ sữa, có thể làm cho thuốc không thấm vào máu.
5. Thuốc trị đau nhức NSAIDS có thể làm mạch máu co rút, làm tăng huyết áp, và có thể làm lở loét mạch máu, và làm loét bao tử, không nên dùng chung với tỏi. Tỏi hay bột tỏi có thể ảnh hưởng đến khả năng cầm máu. Khi uống chung có thể làm chảy máu đường ruột.
Trên đây là một vài thí dụ cần lưu ý khi uống thuốc. Nếu không chắc thì nên hỏi bác sĩ và dược sĩ khi được kê toa thuốc. Trên mạng Google cũng có nhiều websites để tra cứu thêm về tác dụng phụ của thuốc men. Uống thuốc đúng sẽ tránh ngộ độc và làm tăng công hiệu của thuốc.

Thác Niagara Với Vẻ Đẹp Hùng Vĩ Và Huyền Ảo


Niagara bắt nguồn từ ngôn ngữ của người da đỏ Neutral có nghĩa là “Sự gầm thét của nước” và có đến tận nơi, nghe tiếng thác đổ, mưa bắn xa cả cây số chẳng khác gì thần sấm đang nổi giận mới thấy hết ý nghĩa của tên gọi này.
Thác Niagara là thác nước ở sông Niagra tại Bắc Mỹ, nằm ở đường biên giới của Hoa Kỳ và Canada, thành phố hai bên bờ của mỗi quốc gia đều mang tên Niagara Falls. Thành phố Niagara Falls thuộc bang New York của Hoa Kỳ và thành phố Niagara Falls thuộc tỉnh Ontario của Canada.
Thác nằm trên con sông Niagara, giữa sông có đảo Dê (Goat Island).Thác Niagara bao gồm 3 thác riêng biệt : thác Móng Ngựa (Horseshoe Falls, đôi lúc gọi là thác Canada , thuộc tỉnh bang Ontario . Canada), thác Mỹ (American Falls) và một thác nhỏ hơn gần đó là thác Khăn voan cô dâu (Bridal Veil Falls).


Trong tài liệu ghi chép đầu tiên về thác Niagara vào năm 1683 của nhà truyền giáo người Pháp, linh mục Louis Hennepin cũng viết rằng: “Người thổ dân da đỏ vốn mê tín luôn tin rằng tiếng gầm thét của dòng thác Niagara, nhất là trong lúc mưa to gió lớn, cách xa 15 dặm còn nghe thấy, khác nào sự nổi giận của các thần dữ”.
Toàn cảnh thác Móng Ngựa


Điều gì đã thu hút hàng chục triệu khách du lịch tham quan thác nước này mỗi năm, trong đó có nhiều nguyên thủ quốc gia cũng như người nổi tiếng như nữ hoàng Anh Elizabeth, gia đình Thái tử Charles và công nương Diana, các thủ tướng Ấn Độ, Canada, tổng thống Mỹ, Chủ tịch Liên bang Xô Viết (Liên Xô cũ), Chủ tịch nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa … đã đến đây , các đại văn hào, họa sỹ, nghệ sỹ cũng đến đây để tìm nguồn cảm hứng. Điều gì đã đem lại doanh thu nhiều tỉ đô la cho ngành du lịch nơi đây.
Hàng cây với lá vàng ươm , có lá vàng , có lá ráng níu lại chút xanh , nơi đầu ngọn thác , nuớc chảy róc rách , nhìn ngắm thác vào mùa thu tuyệt đẹp . Niagara Fall nơi các cặp tình nhân tìm đến đây vào mùa thu để tình yêu tăng thêm phần lãng mạn .
Hàng cây với lá vàng ươm , có lá vàng , có lá ráng níu lại chút xanh , nơi đầu ngọn thác , nuớc chảy róc rách , nhìn ngắm thác vào mùa thu tuyệt đẹp . Niagara Fall nơi các cặp tình nhân tìm đến đây vào mùa thu để tình yêu tăng thêm phần lãng mạn

NHỚ VỀ MỘT THUỞ XƯA CÒN SAIGON…

Bộ mặt Sài gòn, lúc 1955, người ta còn thấy những thầy Cảnh Sát được gọi là Mã Tà, đứng huýt còi ở các ngã tư đường. Vậy mà chẳng bao lâu chữ gọi mã tà đó đã biến mất.
Và sau này, sẽ còn nhiều cái biến mất như thế.
Nhiều cái biến mất như thế để Sài Gòn như hôm nay.
Người ta vẫn còn thấy những xe thổ mộ đủng đỉnh, kêu lóc tóc vui tai với các lục lạc của xe ngựa kéo trên các con đường từ chợ Bến Thành xuống tận Ngã Tư Bảy Hiền, hay từ Bến thành đi chợ Bà Chiểu. Nó vẫn như ngang nhiên thách đố với các tuyến đường xe buýt nay đã chật ních người. Nó vẫn có những khách hàng quen thuộc là những người thuộc giới bình dân, giới buôn thúng bán mẹt.
Nó chỉ dần dần biến mất lúc nào không ai hay khi mà những chiếc xe Lambretta ba bánh nhập cảng từ Ý đã được chế biến lại cùng chạy trên những tuyến đường đó. Xe Lam nhanh hơn, chở tới 12 người, 10 người ngồi ở đằng sau, khi cần, có thể ghé thêm hai người ngồi bên cạnh tài xế. Vậy tất cả là 13 người chứ không 12. Xe lại có nhiều chuyến hơn, cứ đầy là chạy và ngồi thoải mái hơn.
Đặc biệt bên hai thành xe có ghi hai câu: Hữu sản hóa, đợt tự chủ. Nếu tôi nhớ không lầm chính sách hữu sản hóa này là ở dưới thời ông Kỳ làm Thủ tướng. Nhưng xe xích lô ba bánh, xích lô đạp, đặc sản miền Nam vẫn tồn tại trong suốt 20 năm miền Nam còn lại. Người trung thành nhất với xích lô đạp, phải chăng là thi sĩ Vũ Hoàng Chương? Có thể ông nghèo vì hút thuốc phiện, nhưng mỗi lần đi dạy ở trường Chu Văn An ông luôn luôn đến trường bằng xe xích lô đạp. Quần áo luôn luôn là ủi thẳng nếp, thắt cravate, tay áo manchette bằng vàng, đầu chải bóng.
Người chạy xích lô đạp thường tranh nhau mời ông không phải vì ông là thi sĩ, mà vì người ông nhẹ như bấc, không chắc ông có cân nặng bằng nửa số ký của người khác không?
Tác giả Lửa Từ Bi hồi 75 đã đi tù Cộng Sản.
Ông nhẹ như bấc, không biết người Cộng sản sợ ông nỗi gì, sợ một người nhẹ như bấc mà đầy đọa ông trong tù. Hỡi những kẻ ngồi lom khom viết bài bênh “Cụ Hồ” nghĩ gì về việc đầy đọa trong tù một thi sĩ trói gà không chặt? Lúc họ thả thì vài ngày sau, ông giã từ cõi thế. Chắc ông cũng chả muốn sống làm gì?
Và có ai ngờ rằng, xích lô đạp vẫn có chỗ của nó sau hơn nửa thế kỷ sinh tồn.
Sau giải phóng, rất nhiều nhà văn, nhà báo, chuyên viên, giáo sư đổi ra đạp xích lô. Đó cũng là một góc cạnh về thế hệ thanh niên miền Nam đọa đầy dưới gót của đôi dép râu?
Và tự nhiên nay nó trở thành biểu tượng nếp sống văn hóa của một thời. Hà Nội nay nhan nhản xích lô đạp dành cho khách du lịch chạy vòng vòng quanh khu phố cổ Hà Nội.
Người ngoại quốc danh tiếng nào đến Việt Nam thì cũng có dịp ngồi trên đó cả. Vợ chồng Brad Pitt và Angelina Jolie cũng có dịp ngồi xe xích lô cho biết mùi vị Việt Nam.
Nhưng cái đổi thay rõ nét nhất là cái áo dài con gái thay thế cho chiếc áo bà ba, chiếc quần hai ống rộng. Chẳng bao lâu sau, chẳng biết từ lúc nào toàn miền Nam mà đặc biệt các nữ sinh Trung Học, từ Sài gòn ra Trung, từ Sài gòn xuống Lục tỉnh. Chỉ áo dài là áo dài. Áo dài Trưng Vương, áo dài Gia Long, áo dài Nguyễn Bá Tòng, áo dài Nữ trung học Lê văn Duyệt, áo dài Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, áo dài Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long, áo dài Nữ Trung Học Nha Trang và nhất là áo dài Đồng Khánh Huế.
Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời Ngày xưa … Hoàng Thị của Pham Thiên Thư:
Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ..
Anh đi theo hoàiGót giày thầm lặngĐường chiều úa nắngMưa nhẹ bâng khuângEm tan trường vềCuối đường mây đỏBước em thênh thangÔm nghiêng cặp sáchVai nhỏ tóc dàiÁo em ngày nọPhai nhạt mây mầuChân tìm theo nhauCòn là vang vọng …Bởi vì em mặc áo lụa Hà ĐôngAnh vẫn yêu mầu áo ấy vô cùngNàng đến gần tôi chỉ dám quay điCả những giờ bên lớp học trường thiTà áo khuất thì thầm chưa phải lúc(Tuổi mười ba)
Nó biểu tượng cho cái gì tinh khiết, trinh nữ, tinh tuyền và mời gọi. Nó che dấu bằng hai vạt áo dài mà như thể mở, biện chứng kín mà hở. Nó mời mọc mà kín đáo chối từ, nó bày tỏ phái tính, sexy đến ứ cổ họng với nét nổi lên của chiếc quần lót hằn lên tuổi dậy thì. Không có y phục phụ nữ nào trên thế giới lại sexy đến như thế. Ngay cả sau này với mini-jupe cũng không sánh bì.
Nó không cần đến những Cardin, Courrèges, St. Laurent, Paco Robanne. Cùng lắm, nó chỉ thua Le Panty, Monokini, quần lót Le petit bâteau của thập niên 1970 Nhưng những thứ này phải “ăn gian” từng centimét mới có được như thế.
Áo dài không ăn gian. Cạnh đó là hàng nút bấm mong manh như lối ngõ vào bên trong nằm hở ra cạnh sườn. Nó không những chỉ là một nét đẹp con gái mà nó trở thành biểu tượng cho một nếp sống văn hóa Việt Nam. Sau này, không biết bao nhiêu những tranh ảnh, bìa báo Xuân, báo Tết chụp hình các thiếu nữ trẻ miền Nam trong chiếc áo dài truyền thống đó.
Và người ta có thể hãnh diện về điều này mà không có gì phải hổ thẹn khi nói đến.
Tuổi thanh xuân thiếu nữ đi liền với nét đẹp con gái ấy.
Nó phản ánh thế hệ thanh thiếu nữ thời ấy mà hễ bất cứ ai không còn là con gái, xồ xề một chút, vùng đùi, vùng mông nở nang một chút là mặc áo dài thường khó coi.
Sự đòi hỏi của tôi có khắt khe quá chăng? Nhưng chính sự đòi hỏi khắc nghiệt ấy làm tăng giá trị chiếc áo dài miền Nam tuổi trẻ. Nhiều phụ nữ các bà mặc trong các dịp lề hội. Thấy làm sao. Rất tiếc sau 75, ra ngoài đường, Sài gòn vắng bóng chiếc áo dài. Cũng là vắng bóng tuổi trẻ miền Nam? Hay tuổi trẻ miền Nam không còn nữa? Người ta không còn phân biệt ai là con gái, ai là đàn bà được nữa đến như thể ai cũng là đàn bà, đến như thể ai cũng mất cả rồi.
Khi không còn những áo dài đó, Sài gòn buồn thiu. Như cây rừng không còn lá.
Tuổi trẻ miền Nam thời ấy biểu tượng vẫn là hình ảnh cô thiếu nữ mặc áo dài trắng quần trắng. Đừng thứ mầu khác, đừng xanh đỏ lò loẹt. Vén tà áo dài sang bên, hở một bên, kín một bên, cho thấy đùi trinh nữ, cho thấy tuổi dạy thì, hai đùi nhẹ khép lại khi bước đi hay khi ngồi trên chiếc xe vê lô sô lếch thời thượng. Bây giờ, tôi không thấy những bước đi kiêu sa thiếu nữ như thế nữa. Đó là hình ảnh cô gái, mình ong thon thon ngồi trên chiếc xe Solex trông giống như một con bò ngựa biết bay. Phất phới, tung gió, nhẹ lướt, mái tóc hất lại đẵng sau, đầu buộc bím mầu xanh tím, để lại đằng sau những cái nhìn dõi suôi bắt không kịp. Và những đôi mắt thèm thuồng.
Ingarary gọi đó là một chuỗi diễn hành phái tính (Mascarade de la fénimité )

Giấc mơ em mặc jupe hồng … thôi rồi Sài Gòn ơi!
Xin mượn lời thơ của Nguyên Sa:
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Em cười tà áo bay trên
Đám mây ở dưới nỗi phiền muộn xa
Anh ngồi chỗ hẹn hôm qua
Đám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng,
Giấc mơ mặc áo lụa vàng
Nơi anh nằm ngủ có hàng Thùy dương

Trong khi đó thì những cậu con trai cỡi xe Vespa, đời ED, đôi kính mầu đen, chiếc áo Montagu, mầu xanh đậm rồ ga hay lượn uốn éo. Nếu Solex là con gái, thì Vespa là con trai. Nếu Solex là con bò ngựa thì Vespa là con bọ hung. Solex là nữ tính, Vespa là nam tính.
Nếu con gái ăn quà thì con trai Bát phố. Bát phố phải chăng là nói nhại từ tiếng Pháp battre le pavé? Thôi thì là gì cũng được. Và xin mượn lại chữ nghĩa của nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng:
… Từ xa phố chợ đến giờ
Chân thôi bỏ lệ gõ bờ lộ quen
Bát phố là một thứ giải trí chiều thứ bảy của con trai Sài gòn. Mà điều căn bản là có mặt. Làm gì, bận bịu gì cũng bỏ đi Bonard bát phố. Sinh viên, học sinh các lớp tú tài, lính tráng đi hành quân ở xa về, công chức các bộ, các nha đều đi dạo phố, ngắm người hay *rửa mắt. Mà phần lớn bọn họ là độc thân, chưa có vợ con. Nếu sang một tý thì vào Givral ngồi, tàm tạm thì một ly nược mía Viễn Đông cũng xong.
Đi dạo phố trở thành một thói quen, một nếp sống của con trai Sài gòn. Ngoài Sài gòn, tôi chỉ thấy ở Huế có sinh hoạt bát phố tương tự. Nhưng ở Huế, số con gái đi dạo phổ kể là đông và đi từng nhóm hai ba cô. Họ sợ bị bắt nạt chăng? Cô nào cũng có chiếc nón không phải để che nắng, che mưa mà để che cái nhìn trộm của con trai. Gái Huế đi dạo trên đường Trần Hưng Đạo mới thật là một diễn hành phái tính. 10 lần ra Huế thì y như rằng ra đi là để lại một cái gì?
Con gái biểu tượng nhất, cái Look theo nghĩa bây giờ là hình ảnh cái thân hình dong, lưng thẳng, găng tay trắng, cặp kính mầu, áo dài trắng, phải áo dài trắng mới được, mới con gái, mới trinh nữ, mới thanh khiết. Vạt áo dài phía sau vắt ngang sang bên kia để hở một bên phần đùi trông cộn hẳn lên trên chiếc Vê lô solex mầu đen. Đi xe vê lô solex chứng tỏ con nhà khá một tý, sang trọng và đài các. Cái dáng ngồi solex trông rất con gái, rất phái tính.
Người phụ nữ sinh ra là để như vậy. Les femmes seraient faites ainsi.
Quyến rũ bằng chính thân xác mình.
Nhờ áo dài đó mà phụ nữ, cô nữ sinh trở thành phụ nữ hơn. La robe lui permettait de devenir plus féminine. Phải nói là thời thượng và ấn tượng lắm. Cộng thêm cái thói ăn quà vặt. Ăn qùa vặt là rất con gái, rất trẻ, rất bắt mắt. Khi cô nữ sinh ăn quà thì tưởng là ăn quà thật. Nhưng đôi khi cũng chỉ là cái cớ sự cho sự trình diễn, sự được nhìn. Nó như chờ đợi một điều gì đó. Điều mà Thị Nở đã chờ đợi từ tuổi 15, 16 thời con gái, nay đà 30 và bao nhiêu thế hệ con gái cũng đã chờ đợi như thế. Như cơn mưa mùa hạ. Như chồi non hé nụ. Như em chờ anh lúc này. Chí Phèo chỉ đến hoàn tất công việc chờ đợi ấy.
Cuộc đời đôi khi đơn giản là như thế.
Ngoài hai thứ đó ra, con gái cũng đi dạo phố. Con trai đi dạo phố là để ngắm. Con gái đi dạo phố xuất hiện như một trình diễn, ăn diện, mốt, kiểu để được nhìn, để được thừa nhận, để nhận phần lớn là những lời tán tỉnh, khen tặng.
Vespa Sài Gòn (thập niên 1960)
Đó là cả một cái guồng máy của sự xuất hiện. L’engrenage du paraitre .
Và cuối cùng, thú vui giải trí chung cho cả con trai lẫn con gái vẫn là ciné và tiệm sách. Ciné là nơi hẹn hò để trai gái gặp nhau cuối tuần để trò chuyện, để tỏ tình, để lén lút hôn nhau. Những nụ hôn mật ngọt ấy. Quên sao được. Những mối tình của giới trẻ thời đó đến đó và dừng lại ở đó. Sau đó để lại một chút gì. Để kỷ niệm, để nhớ, để mãi mãi là như thế.
Nay gặp nhau cuối đời, lòng như chợt tỉnh, như chấu ủ bếp lửa bừng lên từ đám tro tàn. Gặp nhau muộn phiền, thương hoài ngàn năm.
Viết đến đây lại chợt nghĩ đến Nguyên Sa. Ông đã nói hộ cho tuổi trẻ Sài gòn:
Nắng Sài gòn anh đi mà chợt mát
Tuổi trẻ miền Nam là như thế. Lành mạnh mà không thiếu lãng mạn, tình tứ. Dắt tay nhau mà đi. Làm thơ tình. Gởi gắm nhắn nhe.
Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nhưng may thay, mọi người Việt Nam, nhất là thanh niên, giới trẻ, lúc bấy giờ đều có một giấc mơ là làm thế nào để có một miền Nam phát triển và phú cường để đối địch với miền Bắc.
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
Chúng tôi đã lớn lên từ đó, trở thành người hữu dụng cũng từ đó.
Cafe Givral, Mở cửa từ năm 1950
Như lời Phạm Duy tỏ bày: ”Dưới thời Cộng Hòa thứ nhất, từ khi chế độ nhà Ngô thành lập và tiến dần tới thời thịnh trị rồi mạt vận, miền Nam, nếu chưa được là thiên đường của đông đảo văn nghệ sĩ đi tìm tự do thì cũng là nơi đất lành chim đậu. Một thế hệ văn nghệ sĩ mới đã thành hình và họat động dữ dội bên những vị đàn anh di cư từ miền ngoài. Phòng trà, tiệm bánh, quán nước như Kim Sơn, Mai Hương, La pagode, Givral, Brodard … là nơi không hẹn mà văn nghệ sĩ tới gặp nhau hằng ngày.”
Trong 9 năm cầm quyền thời Tổng Thống Ngô Đình Diệm, chỉ có 3 lần có những biến động chính trị. Nhưng chỉ riêng năm 1964, có 13 lần miền Nam rơi vào những biến động có thể làm lung lay nền Cộng Hòa. Nói như thế để thấy rằng sự ổn định chính trị nằm ở thời điểm nào.
Người nào không nhìn nhận những điều ấy thì chỉ thiệt thòi cho chính họ thôi, bởi vì họ tự mình bôi xóa tuổi trẻ của chính họ. Nhiều người đã bôi xóa như thế để chạy theo vài ảo tưởng chính trị, hoặc nếu ở ngoại quốc thì chạy theo những xu hướng thiên tả vốn chẳng dính dáng gì đến thực tế chiến tranh Việt Nam.
Phần tôi nghĩ rằng, chúng tôi không bước đi những bước đi đơn độc.
Chúng tôi có bạn đồng hành, đồng trang lứa, có những người lính, người sĩ quan VNCH cùng lớn lên ở đấy, đang xả thân thay cho chúng tôi. Và cho dù cuối cùng để mất miền Nam thì những giá trị tinh thần ấy vẫn còn đó.

P.N. L. thực hiện

Hương sắc Việt Nam: Mộc Châu vẻ đẹp dịu dàng, trong sáng, bình yên kỳ lạ...

Hương sắc Việt Nam là món quà của ban biên tập Nghệ thuật.Đại Kỷ Nguyên dành tặng những người con đất Việt gắn bó với văn hóa truyền thống nên thơ của nước nhà và mong muốn vẻ đẹp này được lưu giữ mãi không phai với thời gian...Mộc Châu là cao nguyên rộng lớn và xinh đẹp nhất vùng núi phía Bắc thuộc tỉnh Sơn La. Nằm trên cung đường Tây Bắc nổi tiếng với những cảnh quan kỳ vĩ, những ngôi làng xinh xắn ven đường với những mùa hoa cải, hoa đào, hoa mận ngút trời. Cái tiết trời se se lạnh cùng với những lớp sương mù dày đặc khiến cảnh vật thiên nhiên nơi đây đẹp lạ, mê mẩn hồn người. Chính những nét đẹp đó, thu hút đông đảo khách du lịch tìm đến đây trải nghiệm, khám phá, và mộng mơ...
Ruộng bậc thang và lúa chín ngút đến chân trời...người ta vẫn tự hỏi tại sao bức tranh tạo hóa vẽ ra lại đẹp đến thế


Thác Dải Yếm duyên dáng và mơ mộng


Những dãy núi Hoàng Liên bao bọc thung lũng xanh biếc, dưới ánh mặt trời lấp lóa cảnh sắc tuyệt đẹp


Cánh đồng chè Mộc Châu từng luống từng luống thẳng tắp


Cánh đồng chè trên ngọn đồi bát úp


Đồi cải trắng Mộc Châu đẹp như thơ với con đường uốn lượn


Đồi chè bên đường


Đồi cải trắng trong sương chiều lảng bảng, những chiếc áo váy dân tộc rực rỡ


Chiếc váy cô bé H’Mông


Ngôi nhà nhỏ trong sương giữa đồng cải trắng cổ tích


Mùa hoa mận trắng nở bạt ngàn núi riêng


Thiếu nữ dân tộc tham gia lễ hội hái mận


Cánh đồng chè tươi đẹp của Mộc Châu


Nắng mùa xuân trong cái se lạnh xuyên qua những cành hoa mận


Những cây đào cổ thụ trên núi


Đàn trẻ nô đùa bên mây núi vờn quanh...


Mây chiều lảng bảng trên cao nguyên Mộc Châu, ngút tầm mắt như lạc chốn tiên cảnh...


Chuyến đi của các du khách phương Tây giữa rừng núi cao nguyên bát ngát...


Khung cảnh thung lũng thanh bình và tươi đẹp


Thác Dải Yếm như lụa mượt mà





Mộc Châu, nơi bình yên và tình yêu bắt đầu...


Hoàng hôn vườn mơ, bạt ngàn cảnh sắc núi rừng Mộc Châu


Cải vàng hoàng hôn. Những bông cải bay về trời...


Thung lũng lau hồng....


Lễ hội khinh khí cầu trên cao nguyên Mộc Châu


Bản Loong Luông Mộc Châu



Bình minh trên nương và ở đâu trên quê hương Việt Nam cũng thấy những người Việt tần tảo sớm hôm...

Nhớ cơm quê

(Tác giả: Hoa Cúc Tím )

Chiều chiều khói tỏa mùi rơm
Bàn tay mẹ nấu bữa cơm quê mùa
Mồng tơi, rau đắng, canh cua
Tép rang, cà pháo muối chua ăn cùng.



Chiều chiều khói tỏa mùi rơm.
Bàn tay mẹ nấu bữa cơm quê mùa
Cá nẹp kho với quả sung
Thơm lừng lối xóm đi xa nhớ nhiều
Cơm được mẹ nấu bằng niêu
Gạo mùa chiêm mới nức chiều miền quê.
Mâm cơm đâu có gì nhiều
Mà sao ấm áp cả đời khó quên
Mẹ cha yêu mến kề bên
Trong mơ mẹ vẫn hiện lên khẽ khàng.



Cá nẹp kho với quả sung.
Thơm lừng lối xóm đi xa nhớ nhiều
Một chiều đông lạnh ngỡ ngàng
Cơm quê nhớ quá, nhẹ nhàng bút thơ
Nhớ tuổi thơ đến ngẩn ngơ
Ước gì trở lại như mơ một lần.
Di Hân – Hà Phương

CÁCH SỬ DỤNG "I" VÀ "Y" VÀ NGUYÊN TẮC ĐÁNH DẤU TRONG TIẾNG VIỆT


Khải Chính Phạm Kim Thư

Nhiều bạn trẻ ta thán rằng khi viết văn, một số người có khuynh hướng đổi "y" thành "i" trong các trường hợp như "Bắc Mỹ" thành ra "Bắc Mĩ," "Quý Mùi" thành ra "Quí Mùi," và "thế kỷ" thành ra "thế kỉ,"v.v. Họ yêu cầu tôi viết bài để giúp họ hiểu rõ tại sao lại có những trường hợp như thế. Chính vì thế, chúng tôi mới có động lực để viết bài "Cách Sử Dụng 'i' và 'y' trong Tiếng Việt." Muốn hiểu rõ về cách ghép vần với nguyên âm "i" hay "y" và phương pháp đánh dấu trong tiếng Việt, trước hết chúng ta cần ôn lại về các chữ cái (tự mẫu) cũng như các nguyên âm và phụ âm.

I. Nguyên âm và Phụ âm trong Tiếng Việt

Chữ " i " là chữ cái (tự mẫu) thứ 9 trong 23 chữ cái của tiếngViệt và "y" là chữ cái cuối cùng trong 23 chữ cái của tiếng Việt. 

23 chữ cái của tiếng Việt gồm có: a, b, c, d, đ, e, g, h, i, k, l, m, n, o, p, q, r, s, t, u, v, x, y. Trong 23 chữ cái này, có 6 nguyên âm chính (a, e, i, o, u, y) và 17 phụ âm đơn (b, c, d, đ, g, h, k, l, m, n, p, q, r, s, t, v, x). Bốn nguyên âm "a, e, o, u" trong số 6 nguyên âm chính "a,e, i, o, u, y" này còn có thêm các dấu nữa (ă, â, ê, ô, ơ, ư) nên 4 nguyên âm này trở thành 10 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, o, ô, ơ, u, ư. Chính vì lý do này mà tiếng Việt có tất cả 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. Ngoài 17 phụ âm đơn, tiếng Việt còn có các phụ âm kép. Các phụ âm kép do hai hay ba phụ âm đơn làm thành (ch, gh, kh, ng, ngh, nh, ph, th, tr) hoặc do một phụ âm đơn và một nguyên âm chính (i hay u) làm thành (gi, qu). Chính vì thế, tiếng Việt có tất cả 28 phụ âm: b, c, ch, d, đ, g, gh, gi, h, k, kh, l, m, n, ng, ngh, nh, p, ph, q, qu, r, s, t, th, tr, v, x, và 12 nguyên âm: a, ă, â, e, ê, i, o, ô, ơ, u, ư, y. 

II. Cách Sử Dụng Nguyên Âm "I" và "Y" 

Tùy theo mỗi vần và theo nghĩa của mỗi chữ, có những trường hợp ta chỉ được dùng "y" hay "i" để viết, chứ không thể dùng "i" để thay thế cho "y" hay dùng "y" để thay thế cho "i" được. Ở một số trường hợp khác, trong cùng một chữ, có người viết bằng "i" có người viết bằng "y" như trong trường hợp "quí" hay "quý" chẳng hạn. Tuy nhiên, theo phong tục tập quán, hầu hết các nhà văn thường viết các chữ với nguyên âm "y" hơn là"i" khi các chữ này có cùng một nghĩa và phát âm giống nhau. Lý do chính là vì các chữ có nguyên âm "y" trông có vẻ lịch sự, kính trọng, quý mến, trang nhã, mỹ thuật, và đầy tình cảm hơn những chữ viết bằng nguyên âm "i," chẳng hạn như trong trường hợp của nhóm chữ "quý văn hữu," "quý ông quý bà," "quý quan khách," "quý bạn," "quý vị," "quý chiến hữu," hay "quý cụ,"v.v. 

A. Những Trường Hợp Có Thể Dùng "I" hay "Y" Cũng Được 

Tùy theo tập quán hay thói quen, có người dùng "i" hay "y" để viết cùng một chữ. Dù là được viết dưới dạng bằng nguyên âm "i" hay "y," nhưng khi được đọc lên thì chữ này vẫn có cùng một âm thanh và cùng một nghĩa. 

Thí dụ: 

- Ì ạch, ỳ ạch; ì ra, ỳ ra; i như, y như; v.v.

- Hi hữu, hy hữu; du hí, du hý; hí đài, hý đài; hí hởn, hý hởn; hí hửng, hý hửng; hí họa, hý họa; hí kịch, hý kịch; hí viện, hý viện; hí trường, hý trường; báo hỉ, báo hỷ; hoan hỉ, hoan hỷ; hỷ tín, hỉ tín; v.v. 
- Kí cóp, ký cóp; kì cạch, kỳ cạch; kì cọ, kỳ cọ; một li, một ly (millimeter), v.v. 
- Mỹ lệ, mĩ lệ; mỹ cảm, mĩ cảm; mỹ mãn, mĩ mãn; mỹ miều, mĩ miều; mỹ nữ, mĩ nữ; mỹ nghệ, mĩ nghệ; mỹ nhân, mĩ nhân; mị dân, mỵ dân; v.v. 
- Ti tiện, ty tiện; ty tiểu, ti tiểu; tự ty mặc cảm, tự ti mặc cảm; ty trưởng, ti trưởng; năm tý, năm tí; tỳ bà, tì bà; tỳ nữ, tì nữ; tỳ tướng, tì tướng; thị tỳ, thị tì; tỳ thiếp, tì thiếp; tỳ vết, tì vết; tỳ vị, tì vị; tỉ dụ, tỷ dụ; một tỉ đồng, một tỷ đồng; tỉ lệ, tỷ lệ; tỉ mỉ, tỷ mỉ; tỷ muội, tỉ muội; tỉ như, tỷ như; tỉ số, tỷ số; tỉ thí, tỷ thí; tỉ trọng, tỷ trọng; năm tỵ, năm tị; tỵ nạn, tị nạn; tị nạnh, tỵ nạnh; v.v.
- Qui, quy (con rùa); nội qui, nội quy; chính qui, chính quy; vu qui, vu quy; qui chế, quy chế; qui củ, quy củ; qui định, quy định; qui hàng, quy hàng; qui hồi, quy hồi; qui luật, quy luật; qui mô, quy mô; qui nạp, quy nạp; qui phục, quy phục; qui tắc, quy tắc; qui thuận, quy thuận; qui tiên, quy tiên; qui tội, quy tội; qui tụ, quy tụ; qui ước, quy ước; qui y, quy y; quí báu, quý báu; quí danh, quý danh; quí hóa, quý hóa; quí hồ, quý hồ; quí hữu, quý hữu; quí khách, quý khách; Quí Mùi, Quý Mùi; quí nhân, quý nhân; quí nữ, quý nữ; quí ông, quý ông; quí phái, quý phái; quí phi, quý phi; quí quốc, quý quốc; quí san, quý san; quí tòa, quý tòa; quí tộc, quý tộc; quí trọng, quý trọng; quí tử, quý tử; quí vật, quý vật; quí vị, quý vị; quì gối, quỳ gối; quì lạy, quỳ lạy; quỉ kế, quỷ kế; quỉ quái, quỷ quái; quỉ quyệt, quỷ quyệt; quỉ sứ, quỷ sứ; quỉ thần, quỷ thần; thủ quĩ , thủ quỹ; ngân quĩ, ngân quỹ; ký quĩ, ký quỹ; quĩ đạo, quỹ đạo; quị lụy, quỵ lụy...
Ghi Chú: 
* Khi viết văn, nhiều người chỉ ghép phụ âm kép "qu" với nguyên âm "y." Tuy nhiên, trong vài quyển Việt Nam Tự Điển, tác giả chỉ đề cập trường hợp của các chữ do phụ âm kép "qu" ghép với nguyên âm "i" mà thôi. Còn về phụ âm kép "qu" ghép vời nguyên âm "y" thì các tác giả chỉ ghi: "quy, xt qui; quý, xt quí; quy,ø xt quì; quỷ, xt quỉ; quy,õ xt quĩ; quỵ, xt quị" (chữ "xt" là dạng viết tắt của "xem từ"). Có quyển tự điển lại ghi "quy (qui)," "quý (quiù)," "quỳ (quiø)," "quỷ (quỉ)," "quỹ (quiõ)," và "quỵ (quị)." Điều này có nghĩa là ta dùng "y" hay "i" để viết chữ có cùng một nghĩa cũng được.
* Trong trường hợp danh từ riêng như tên thành phố, tên nước, hay tên người, v.v., nếu các chữ đã được viết bằng "i" hay "y" thì ta không được quyền tự ý thay đổi như trong trường hợp của tên thành phố hay tên người sau đây: Thị xã Qui Nhơn, Mỹ Quốc, Mỹ Châu, tỉnh Mỹ Tho, Mị Châu (con gái vua Thục An Dương Vương lấy Trọng Thủy, con của Triệu Đà), Mị Nương (con gái vua Hùng Vương), GS. Doãn Quốc Sỹ, và CH Trần Thy Vân, v.v. 
* Khi đánh các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng lên chữ "quy" hay "qui," chúng ta phải đánh dấu lên trên nguyên âm "y" hay "i" vì chữ "u" trong chữ phụ âm kép "qu" đã cùng vơiù "q" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Trong trường hợp phụ âm kép "th" ghép với vần "ui" hay "uy" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ nhất "úi" (thúi) và "úy" (thúy). Nếu nguyên âm thứ 2 có dấu sẵn như "uê" hay "uơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ 2 này "uế" (thuế) và "uở" (thuở). Xin xem tiếp phần "III" nói về Nguyên Tắc Đánh Dấu Trong Tiếng Việt ở dưới đây. 

B. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên Âm I" 

1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "I": ai, ia, ich, iêc, iêm, iên, iêng, iêp, iết, iêu, im, in, inh, ip, it, iu, oai, oi, ôi, ơi, ui, uôi, ưi, ươi, v.v.
-Ai: Ai oán, thất bại, cải dạng, chài lưới, dai dẳng, khán đài, gái tơ, âm giai, hài lòng, khai giảng, tương lai, mái nhà, van nài, ngái ngủ, lải nhải, lẽ phải, quái kiệt, rải rác, sai bảo, tai vạ, thái độ, từng trải, vai trò, tiêu xài, v.v. 
- Ia: Ỉa đái, bia miệng, địa chỉ, đôi hia, trông kìa, khía cạnh, lia lịa, mỉa mai, cái nĩa, nghĩa cử, tứ phía, chầu rìa, sỉa xuống, tia sáng, cái thìa, tría lịa, hú vía, xỉa răng, v.v. 
- Ich: Ích lợi, bích chương, chích thuốc, xê dịch, mục đích, hích nhau, đả kích, khiêu khích, lý lịch, tĩnh mịch, chật ních, nghịch ngợm, nhúc nhích, phình phịch, cũ rích, sình sịch, diện tích, sở thích, chỉ trích, xích đạo, v.v. 
- Iêc: Xanh biếc, chiếc thuyền, cá diếc, điếc tai, liếc mắt, mắng nhiếc, thương tiếc, ấm thiếc, công việc, xem xiếc, v.v. 
- Iêm: Châm biếm; chiêm ngưỡng, bao diêm, điềm lành, hiếm hoi, kiếm hiệp, liêm sỉ, niêm luật, truyền nhiễm, chuyện phiếm, siểm nịnh, tiêm thuốc, thiêm thiếp, viêm lương, Xiêm La, v.v.
- Iên: Biên bản, chiến tranh, diễn thuyết, điên đảo, hiên ngang, kiên cố, xui khiến, liên bang, miền xuôi, nghiên cứu, tất nhiên, luân phiên, trước tiên, thiên vị, triền miên, viên mãn, xiên xẹo, v.v.
- Iêng: Biếng nhác, chiêng trống, chết điếng, tháng giêng, hiêng hiếng, kiêng khem, khiêng vác, liểng xiểng, súc miệng, nghiêng ngửa, riêng biệt, siêng học, hòm siểng, mang tiếng, linh thiêng, xiềng xích, v.v,
- Iêp: Ngọc diệp, trùng điệp, hiếp đáp, duyên kiếp, khiếp sợ, tầy liếp, cơ nghiệp, nhiếp ảnh, trực tiếp, thiệp mời, v.v.
- Iêt: Biết điều, chiết cây, diệt vong, giết giặc, kiệt lực, tinh khiết, quyết liệt, miệt mài, ác nghiệt, nhiệt huyết, quân phiệt, chạy riết, siết chặt, trinh tiết, kiến thiết, triết lý, viết văn, Việt Nam, xiết chặt, v.v.
- Iêu: Phát biểu, chiếu cố, cái diều, điêu luyện, hiếu đễ, kiêu ngạo, cô liêu, văn miếu, nồi niêu, phì nhiêu, phiêu bạt, bún riêu, siêu nhân, tiêu chuẩn, thiếu phụ, thủy triều, xiêu vẹo, v.v.
- Im: Im lặng; bím tóc, con chim, dìm thuyền, him híp, kim chỉ, lim dim, mỉm cười, con nhím (dím), chiếu phim, rim cá, trái sim, tìm tòi, chú thím, v.v.
- In: In sách, bịn rịn, chín chắn, gìn giữ, kín đáo, mịn màng, nín hơi, nghìn đời, nhịn nhục, đèn pin, phin cà phê, nước rịn ra (nhỏ ra, rỉ ra), tin cậy, năm thìn, vịn cớ, xin lỗi, v.v. 
- Inh: Inh ỏi, binh lính, chính giữa, dinh dưỡng, đỉnh chung, hình ảnh, kinh đô, khinh bỉ, linh thiêng, minh bạch, an ninh, nghinh chiến, nhinh nhỉnh, má phính, rình mò, sinh khí, tinh khiết, thính giả, vĩnh biệt, xinh đẹp, v.v. 
- Ip: Lừa bịp, chíp chíp, dịp may, híp mắt, kịp thì, nhịp điệu, v.v.
- It: Ít ỏi, bịt miệng, chi chít, đá đít, hít hơi, đen kịt, khít khao, lít nước, mịt mờ, con nít, đông nghịt, quịt nợ, ríu rít, đen sịt, xa tít, thin thít, con vịt, xịt thuốc, v.v.
- Iu: Ỉu xịu, bận bịu, chịu khó, dịu dàng, hiu hắt, kĩu kịt, líu nhíu, níu lại, nhíu mắt, phụng phịu, ríu rít, tiu nghỉu, thiu thối, trìu mến, víu vào, bé xíu, v.v.
- Oai: Oai hùng, choai choái, đoái hoài, khoái chí, loài vật, năm ngoái, ngoại cảm, mệt nhoài, soái phủ, toại nguyện, thoải mái, xoai xoải, v.v.
- Oi: Oi bức, thầy bói, cõi Phật, chọi gà, theo dõi, đòi nợ, gọi dạ bảo vâng, giỏi giang, hói đầu, khỏi bệnh, lòi tói, mỏi mệt, nòi giống, ngòi bút, nhoi nhói, rọi đèn, soi gương, củ tỏi, thói đời, trói buộc, vòi nước, xoi bói, v.v.
- Ôi: Ôi chao! Bối rối, cỗi rễ, chồi cây, dồi dào, đôi khi, gội đầu, giồi phấn, hối cải, khôi phục, lôi thôi, mối tình, nối dõi, ngồi xuống, nhồi thịt, phối hợp, rối loạn, sôi nổi, tối cao, thôi thúc, trôi chảy, vội vã, xối xả, v.v. 
- Ơi: Ới trời ơi! Bơi lội, dời đổi, đời người, giới thiệu, hơi thở, khởi hành, lợi hại, mới tinh, nơi chốn, ngợi khen, phơi phới, rời khỏi, sợi dây, tơi bời, thời sự, trời biển, vời vợi, xới đất,v.v.
- Ui: Ủi quần áo, búi tóc, cúi đầu, chùi tay, dùi trống, đui mù, giúi tiền, húi tóc, khui thùng gạo, lui lủi, mui xe, nùi lửa, ngùi ngùi, nhủi vào lỗ, phủi bụi, rủi ro, sui gia, túi bụi, thui thủi, trụi lủi, vui vẻ, xui khiến, v.v. 
- Ưi: Khung cửi, chửi mắng, gửi thư, ngửi hơi,v.v.
- Uôi: Buổi sáng, cuối cùng, chuỗi hạt, duỗi chân, đuôi ngựa, muối mặt, nuôi dưỡng, nguôi giận, ruổi theo, suối vàng, tuổi tác, xuôi lòng, v.v.
- Ươi: Quả bưởi, cưới hỏi, dưới nước, lười biếng, mười mươi, người ta, rười rượi, lò sưởi, tươi cười,v.v. 
2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "I."
-"B-i": Bi ai, hòn bi, bí ba bí bô, bí mật, quả bí, vận bí, say bí tỉ, li bì, so bì, phong bì, bì bạch, bì phu, bỉ sắc tư phong, bỉ thử, bỉ mặt, bĩ cực, bị tù, bị động, phòng bị, bị gậy, bị té, v.v. 
- "D-i": Di cư, Di Đà, di tích, man di, tru di, di ngôn, di hài, di họa, di truyền, di vật, dí vào, bẹp dí, dì ghẻ, dỉ tai, bất đắc dĩ, khả dĩ, dĩ nhiên, dĩ vãng, kỳ dị, dị đoan, dị nghị, v.v.
- "Đ-i": Đi bộ, đi đời, đi cầu, đi đứt, đi thi, đi tu, đi vắng, đi đò, lờ đi, bỏ đi, lẹ đi, đi lẹ, làm đi, đì đẹt đì đùng, đĩ điếm, v.v.
- "G-i": Gí mũi vào, can gì, có gì đâu, v.v.
- "H-i": Khóc hi hi, cười hi hỉ, ngựa hí, hí hởn, hí hoáy, hí hởn, hí hửng, hì hà hì hục, cười hì hì, hỉ mũi, hỉ hả, v.v.
- "K-i": Ki lô mét, một kí, kì kèo, kị (cụ), v.v. 
- "L-i": Li bì, nhỏ li ti, lí la lí lô, lí nhí, lì lợm, lì xì, v.v.
- "M-i": Mi (mày), mi (nốt đàn), lông mi, mí mắt, bánh mì, Mị Châu, mị dân, Mị Nương, v.v.
- "N-i": Chỗ ni chỗ nớ (chỗ này chỗi kia), ni cô, nỉ non, nỉ (dạ, len), v.v.
- "R-i": Khóc như ri, làm ri (làm thế này), nước chảy ri rỉ, nhỏ rí, xanh rì, rì rầm (thì thầm), chậm rì rì, mưa rì rào, mưa rỉ rả, rỉ từng giọt, rỉ tai, rỉ hơi, v.v.
- "S-i": Cây si, si tình, ngu si, gắn si, đen sì, bán sỉ, liêm sỉ, sỉ nhục, sỉ vả, văn sĩ, kẻ sĩ, sĩ tử, sĩ hoạn, sĩ phu, nghệ sĩ, sĩ quan, binh sĩ, sĩ diện, sĩ khí, v.v. 
- "T-i": Tôn ti trật tự, kẻ tôn người ti, ti hí, ti ma (để tang 3 tháng), ti toe, ti trúc, ti hí, ti tỉ tì ti, tí hon, một tí, tí nhau, tí teo, tí tẹo, tí xíu, tí ti, tí tị, tí nữa, tí chút, tí tách, tí toe tí toét, cậu bé Tí, tí xíu, tì tích, tì hưu, tì tì, tì tay xuống, ngọc tỉ, tỉ tê, lòi tĩ, ganh tị, ghen tị, tị tẹo, v.v.
- "V-i": Vi cá (vây cá), vi trùng, vi hành, chu vi, hiển vi, huyền vi, hành vi, vi hiến, vi âm, vi vu, vi vút, cái ví, ví von, ví bằng, ví dụ, ví như, trị vì, tại vì, nể vì, vì đâu, vì rằng, bởi vì, làm vì, thay vì, vì thế, vì vèo, vỉ đập ruồi, thủ vĩ, vĩ tuyến, vĩ đại, vĩ đạo, vĩ đại, vĩ nhân, vĩ tuyến, ngôi vị, vô vị, quý vị, bài vị, tự vị, vị chi, tì vị, vị lai, vị tha, vị chi, mùi vị, gia vị, vị giác, vị hôn thê, vị kỷ, vị lai, vị lợi, vị nể, vị tất, vị thành niên, vị trí, vị vong nhân, v.v.
- "X-i": Xi đái, gắn xi, xi măng, chuồng xí, xí gạt, xí nghiệp, cờ xí, xí chỗ, xí phần, xí xóa, xí xa xí xô, xì hơi, xì xào, xì dầu, xì gà, xì xằng, xì xụt, xì xụp, xì xồ, bạch xỉ, xỉ mũi, xa xỉ, xỉ vả, xị mặt ra, v.v.

3. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "I" Bằng Cách Ghép Phụ âm Kép với Nguyên Âm "I." 

"Ch-i": Làm chi vậy, tứ chi, hình chữ chi, thập nhị chi, chi thu, chi nhánh, chí khí, chi lan, tạp chí, chí hiếu, chí cuối, con chí, hạ chí, bút chì, chỉ chỏ, chỉ biết, sợi chỉ, tôn chỉ, chứng chỉ, cấm chỉ, Giao Chỉ, điểm chỉ, chỉ bảo, chỉ số, chỉ trích, chị em, v.v. 
"Gh-i": Ghi chép, ghi nhớ, ôm ghì, v.v.
"Kh-i": Khi xưa, khinh khi, khi không, khi quân, khi đi, không khí, khí cụ, khí cốt, tức khí, tinh khí, khí cầu, khí hậu, khí phách, khí quản, khí tiết, khí tượng, khí huyết, khí khái, khí sắc, khí vật, đồ khí gió, cười khì, ngủ khì, con khỉ, khỉ khô, v.v.
"Ngh-i": Nghi hoặc, nghi lễ, tiện nghi, nghi gia, nghi ngút, nghí ngoáy, vô nghì, nghỉ ngơi, nghĩ ngợi, lo nghĩ, hữu nghị, quyết nghị, nghị lực, nghị luận, v.v. 
"Nh-i": Nhi đồng, nhí nhảnh, hạng nhì, nhì nhằng, to nhỉ, đẹp quá nhỉ! Nhĩ mục(tai mắt), mộc nhĩ, nhị đào, đệ nhị, nhị tì, Nhị Độ Mai, Nhị Hà, v.v.
"Ph-i": Chánh phi, phi mỡ, phi cơ, phi tang, phi mã, phi chiến, phi đạn, Phi Châu, Phi Luật Tân, phi tần, phi phàm, phi lý, phí phạm, phát phì, phì cười, phì nhiêu, phì phà phì phèo, thở phì phì, phỉ lòng, thổ phỉ, phỉ báng, phỉ chí, phỉ sức, phỉ nhổ, phỉ vào mặt, phị mặt ra, v.v.
"Th-i": Thi cử, thi sĩ, Kinh Thi, con nhà thi lễ, dòng dõi thi thư, thi hài, cỏ thi, thi ân, thí sinh, thí nghiệm, bố thí, thí mạng, thí phát, thí dụ, đói thì ăn, thì giờ, dậy thì, cây thì là, thì ra, thì thầm, thì thọt, thì thùng, hồ thỉ, quả thị, dấu hoa thị, thị vệ, thị giác, thị thực, thị uy, kỳ thị, thị hiếu, yết thị, thị dục, Phạm Thị Thu, miệt thị, thị phi, đích thị, thị vệ, thị nữ, thị xã, v.v.
"Tr-i" Bạn tri âm, bố trí, tri giác, trí mạng, tri phủ, trí sĩ, trí tuệ, thông tri, trí thức, trí trá, bảo trì, duy trì, đan trì, trì giới, trì hoãn, phù trì, thành trì, trì trọng, trụ trì, ấu trĩ, bệnh trĩ, chim trĩ, bình trị, cai trị, giá trị, trị liệu, trị tội, trị thủy, v.v. 

C. Những Chữ Chỉ Được Viết với Nguyên âm "Y"

1. Những Chữ Có Các Vần Sau Đây Chỉ Được Viết với Nguyên Âm "Y": ay, ây, oay, uây, uy, uya, uych, uyên, uyêt, uynh, uyt, uyu, yên, yêt, và ynh.

- Ay: Áy náy, tụi bay, cay cú, ăn chay, day dứt, dạy bảo, đáy nồi, gay gắt, giày dép, hay chữ, khay nước, lay động, may mắn, nảy mầm, ngay thật, nhay nháy, dao phay, quay mình, ray rứt, say mê, tay chân, thay đổi, trảy (hái) quả mơ, vay nợ, xảy ra, v.v. 
- Ây: Cái ấy, bây giờ, cây cảnh, cây đàn, chầy cối, dây thép, đây này, gây gổ, giây phút, hây hây, lầy nhầy, mấy quyển sách, nẩy mầm, ngây ngất, nhầy nhụa, phây phây, quây quần, rầy rà, sẩy đàn, tầy trời, thầy mẹ, trẩy hội, vây cánh, xây nhà,v.v. 
* Trường hợp sau đây là ngoại lệ vì chữ viết và đọc khác nhau nhưng có cùng một nghĩa: quải gánh, quảy gánh, hay quẩy gánh (đều có cùng một nghĩa là gánh trên vai).
- Oay: Cái khoáy, loay hoay, nghí ngoáy, xoay vần, v.v.
- Uây: Khuây khỏa, ngoe nguẩy, v.v.
- Uy: Uy danh, cung thương giốc chủy vũ, duy ngã, huy hiệu, khuy áo, lũy tre, nguy cấp, suy nhược, tuy nhiên, thủy chung, truy tố, cổ xúy, v.v. 
- Uya: Thức khuya, v.v. 
- Uych: Ngã uỵch, huých nhau, huỳnh huỵch, v.v.
- Uyên: Uyên bác, chuyên cần, duyên dáng, huyên náo, khuyên bảo, luyến ái, nguyên chất, nhuyễn thể, bệnh suyễn, tuyên dương, thuyên chuyển, truyền thống, xuyên tạc, v.v. 
- Uyêt: Chuyết kiến (ý kiến thô thiển của tôi), duyệt binh, huyết mạch, khuyết điểm, nguyệt liễm, tuyệt diệu, thuyết phục, điểm xuyết, v.v.
- Uynh: Huynh đệ, khuynh hướng, luýnh quýnh, v.v. 
- Uyt: Huýt sáo, lườm nguýt, xuýt chết, v.v.
- Uyu: Khuỷu tay, khúc khuỷu, ngã khuỵu, v.v.
- Yên (qu + yên): Quyên sinh, quyến thuộc, quyền lợi, chính quyền, lưỡng quyền, quyền quý, quyển sách, ống quyển, v.v.
- Yêt (qu + yêt): Cương quyết, bí quyết, hành quyết, quyết nghị, xảo quyệt, v.v. 
- Ynh (qu + ynh): Mừng quýnh, cây quỳnh, quỳnh bôi, quỳnh tương, v.v.

2. Những Chữ Sau Đây Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình hay Đứng Đầu Mỗi Chữ: 

- Nguyên Âm "Y" Đứng Một Mình: 

Y đến rồi, y án, vàng y, qui y, chuẩn y hay y chuẩn, y hẹn; y hi, y sĩ, qui y, y theo, ý chí, ý định, ý nhị, ý kiến, ý nghĩa, ý thích, ý tứ, ý vị, ỷ mình, ỷ lại, ỷ lại, ỷ quyền, béo ỵ, v.v. 
- Nguyên Âm "Y" Đứng Đầu Mỗi Chữ: 
Yêm hoạn (hoạn quan), yếm thế, yểm bùa, cái yếm, yểm trợ, v.v.; Yên Đổ (Nguyễn Khuyến), Bình yên, yên hà, yên xe, yên đổ (tửu sắc yên đổ), yên trí, yến tiệc, yến oanh, yến sào, v.v.; con yểng; yết hầu, yết kiến, niêm yết, yết thị, yết hậu (lối thơ mà câu cuối cùng chỉ có một chữ), v.v.; yêu cầu, yêu chuộng, yêu đạo, yêu quái, yêu vận, phái yếu, yếu điểm, yếu tố, chết yểu, yểu điệu, yểu tướng, v.v.

3. Những Chữ Sau Chỉ Được Dùng Nguyên Âm "Y" Bằng Cách Ghép Phụ Âm Đơn với Nguyên Âm "y."

-"H-y": Hy Lạp, hy vọng, hy sinh, hy hãn, hý lộng, hý ngôn, hỷ lạc, hỷ nộ, hỷ sự, v.v. 
-"K-y": Ký âm, bi ký, chữ ký, ký danh, ký giả, ký hiệu, ký lục, nhật ký, ký quỹ, ký sinh trùng, ký sự, ký tên, ký túc xá, ký thác, thư ky,ù ký ức, Bắc Kỳ, cầm kỳ thi hoạ, kỳ cục, kỳ cùng, cực kỳ, kỳ cựu, kỳ diệu, kỳ duyên, kỳ đà, kỳ đài, đến kỳ, kỳ đồng, kỳ được, kỳ ghê, kỳ hạn, kỳ hào, hiếu kỳ, học kỳ, kỳ khôi, kỳ khu, kinh kỳ, kỳ lạ, kỳ lão, kỳ lân, kỳ lưng, kỳ mục, Nam Kỳ, kỳ ngộ, phân kỳ, kỳ phùng địch thủ, kỳ quặc, kỳ quái, kỳ quan, quốc kỳ, kỳ thị, kỳ thú, kỳ thực, Trung Kỳ, kỳ vọng, kỷ cương, ghế trường kỷ, ích kỷ, kỷ luật, kỷ lục, kỷ niệm, kỷ nguyên, tự kỷ, thế kỷ, kỷ yếu; kỹ càng, kỹ nghệ, làm kỹ, kỹ nữ, ngủ kỹ, kỹ nhé, kỹ sư, kỹ thuật, nhà có kỵ (ngày giỗ), đố kỵ, kỵ binh, kỵ gió, kỵ mã, kỵ nhau, kỵ sĩ, v.v. 
- "L-y": cái ly, ly biệt, quẻ ly, hồ ly, ly bôi (chén rượu uống lúc chia tay), ly dị, ly gián, ly hương, ly khai, ly kỳ, ly tán, giáo lý, lý ngư, cố lý, hành lý, đào lý, lý lẽ, lý hóa, lý lịch, lý sự, lý tài, lý thuyết, lý trí, lý tưởng, lý trưởng, mạ lỵ, bệnh kiết lỵ, v.v.
- "M-y": Bắc Mỹ, Mỹ Châu, Mỹ Quốc, Mỹ kim, hoa mỹ, mỹ sắc, thẩm mỹ, Mỹ Tho, mỹ thuật, mỹ tục, mỹ từ pháp, mỹ tửu, mỹ xảo, mỹ vị, mỹ viện, mỹ ý, v.v. 
- "T-y": Ty mật thám, công ty, tỳ tạng, tỳ kheo, tỳ vị, tỷ đối, tỵ hiềm, v.v. 

III. Nguyên Tắc Đánh Dấu trong Tiếng Việt: 

- Nếu một chữ có phụ âm đơn hay phụ âm kép ghép với một nguyên âm, thì các dấu phải đánh vào nguyên âm đó: bé, tá, phò mã, khỉ, xạ thủ, v.v. 
- Nguyên âm "u" và "i" trong phụ âm kép "qu" và "gi" đã cùng với phụ âm "q" và "g" để biến thành phụ âm kép chứ không còn là một nguyên âm nữa. Chính vì thế mà hai phụ âm kép này ghép với 1 hay 2 nguyên âm thì các dấu phải đánh vào nguyên âm ở ngay sau phụ âm kép này: quý, quí, quá, quà, quả, quỹ quạ, già, giá, giữa, giác, giải, giả, v.v.
- Nếu trước 2 nguyên âm mà có phụ âm đơn hay kép và sau 2 nguyên âm này lại không có phụ âm nào thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ nhất như: chùa, chúa, thúy, thùy, thúi, lũy, gào, góa, bùa, của, bùi, chúa, khói, khảo, khóa, lìa, trào tráo, khéo, khỏe, khóe, chúi, thủy, và trụy, v.v. 
- Trong một chữ có 2 hay 3 nguyên âm mà1 nguyên âm đã có dấu sẵn như: ă, â, ê, ô, ơ, ư, v.v. thì các dấu sắc, huyền, hỏi, ngã, và nặng phải đánh vào nguyên âm đó: thuế, thuấn, thuyền, thuở, uyển chuyển, chữa, suyễn, diễm, truyện, diệu, v.v. Nếu 2 nguyên đều có dấu cả như "ư và ơ" thì các dấu phải đánh lên nguyên âm thứ hai: tướng lãnh, thường lệ, thưởng phạt, dưỡng khí, thượng lộ, v.v. 
- Nếu trong một chữ chỉ có 2 nguyên âm mà trước và sau 2 nguyên âm này đều có phụ âm đơn hay kép thì các dấu phải đánh vào nguyên âm thứ hai: đoán, khoáng, khoát, khoét, toàn, khoảng, loãng, loạng choạng, v.v.
- Khi một chữ tận cùng bằng 3 nguyên âm, thì các dấu phải đánh lên nguyên âm ở giữa như: thoái thác, ngoéo cổ, cười, bải hoải, khúc khuỷu, choãi chân, hải ngoại, v.v.

IV. Tổng Kết

Những điều chúng tôi trình bày trên đây là có ý định giúp các bạn trẻ ở hải ngoại có tài liệu học hỏi về cách ghép vần với nguyên âm "i" và "y" cùng với cách đánh dấu tiếng Việt. Việc ghép vần và đánh dấu tiếng Việt hết sức là quan trọng. Chúng ta cần phải học hỏi và nghiên cứu mới thấu đáo được. Có thấu đáo được cách ghép vần và đánh dấu tiếng Việt thì mới giỏi tiếng Việt. Có giỏi tiếng Việt ta mới xứng đáng là người Việt và mới có cơ hội học hỏi về lịch sử, phong tục, và truyền thống của tổ tiên. Có như thế thì nước Việt của chúng ta mới thoát khỏi ách Cộng Sản. Có thoát khỏi ách Cộng Sản, nước ta mới hùng cường và toàn dân mới được hưởng dân chủ, tự do, nhân quyền, âm no, và hạnh phúc muôn đời. 

Canada, 2003
Khải Chính Phạm Kim Thư

Lúc 10 giờ 30 ngày 10/12/1910, lần đầu tiên một chiếc máy bay loại bốn cánh nhãn hiệu Farman xuất hiện trên bầu trời Sài Gòn, lượn mấy vòng cho dân chúng ngắm vật lạ từ cha sinh mẹ đẻ chưa từng thấy.
Sau đó chiếc máy bay đáp xuống trường đua ngựa. Người phi công lái chiếc máy bay ấy tên là Van Ven Borg.
… Trong Thế chiến thứ nhất (1914 – 1918), máy bay đã tham chiến ở châu Âu. Sau này một số sĩ quan người Pháp tham chiến trở lại thuộc địa Nam kỳ, đóng ở trại lính bộ binh, lập câu lạc bộ chơi máy bay. Họ mua bộ phận rời từ Pháp, chở về Sài Gòn ráp lại, đem biểu diễn ở bãi trường đua cũ, bay vào phía Chợ Lớn rồi quay về. Phía dưới đất phải đốt khói để phi công biết được hướng gió, khi cất cánh và khi đáp xuống. Máy bay thuở ấy có hai tầng cánh, bay chậm, gây ngạc nhiên thích thú cho người xem.
Thực hiện chủ trương đưa ngành hàng không vào Đông Dương, ngày 31/1/1917 chính quyền Bắc kỳ cho xây sân bay Vị Thủy (thuộc tổng Thanh Vị, huyện Minh Nghĩa, phủ Quốc Oai, Sơn Tây), rồi những chiếc máy bay quân sự đầu tiên được chở bằng tàu thủy Ménam cập bến Hải Phòng. Ngày 13/7/1917, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập Sở Hàng không Đông Dương đặt dưới sự chỉ đạo tối cao của Toàn quyền Đông Dương.
Ngày 25/9/1919, nhân dịp Hội đồng tư vấn Trung kỳ họp ở Huế, Hà Nội cho 2 chiếc máy bay vào để biểu dương sức mạnh quân sự của chính quyền thuộc địa. Chẳng may một chiếc bị nạn rơi ở sông Lam (Nghệ An). Đó là tai nạn máy bay đầu tiên ở VN.
Ngày 20/11/1919, loại thủy phi cơ (Hydravion) bắt đầu được cho bay. Sau khi chính thức thành lập phi đội Nam kỳ, chính quyền Pháp ở Sài Gòn cho xây dựng sân bay Tân Sơn Nhứt.
Tân Sơn Nhứt là tên một thôn nằm trên vùng đất cao phía bắc thành phố Sài Gòn, cách trung tâm thành phố khoảng 5 km. Thôn này nguyên là một giáp thuộc thôn Tân Sơn có từ thời Nguyễn Hữu Cảnh vào lập nền hành chánh ở Gia Định, trải qua triều Gia Long đến triều Minh Mạng nâng lên thành thôn Tân Sơn Nhứt thuộc tổng Dương Hòa Thượng, huyện Bình Dương, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định, với tứ cận: Đông giáp 2 thôn Phú Nhuận, An Hội thuộc tổng Bình Trị Hạ. Tây giáp thôn Tân Sơn Nhì cùng tổng. Nam giáp xã Phú Thọ thuộc tổng Tân Phong Thượng, huyện Tân Long và thôn Tân Sơn Nhì. Bắc giáp hai thôn Hạnh Thông Tây và An Hội thuộc tổng Bình Trị Hạ.
Năm 1920, ngành hàng không lấy phần lớn diện tích của làng Tân Sơn Nhứt để xây dựng sân bay, và gọi là sân bay Tân Sơn Nhứt. Phần đất còn lại nhỏ hẹp không đủ tiêu chuẩn lập làng riêng, nên hợp với phần còn lại của làng Chí Hòa sau khi trích một phần nhập vào thành phố Sài Gòn thành làng Tân Sơn Hòa. Ban đầu sân bay Tân Sơn Nhứt chỉ dùng cho quân sự, lúc đó chỉ mới một phi đạo, nền đất trồng cỏ. Đến năm 1930 mới có một số nhà cửa ở sân bay phục vụ cho Hãng hàng không Air Orient. Năm 1934, phi đạo mới được trải nhựa và bắt đầu xây nhà ga. Tuyến Hà Nội – Sài Gòn – Hải Phòng – Xiêng Khoảng và ngược lại bay đầu tiên vào ngày 10/1/1921. Tuyến bay thẳng Hà Nội – Sài Gòn đầu tiên vào ngày 19/4/1921, mỗi lượt mất 8 giờ rưỡi.
Năm 1930, chính quyền Sài Gòn muốn mở rộng sân bay để dùng cho máy bay dân sự. Nhưng bấy giờ giá đất xung quanh sân bay đã cao vọt lên, không đủ ngân sách để bồi thường. Người ta nghĩ tới việc tìm ở Cát Lái thuộc Q.Thủ Đức một khu đất vuông vức, mỗi chiều 1.400 m để xây dựng sân bay khác. Công việc chưa kịp tiến hành thì gặp lúc khủng hoảng kinh tế thế giới nên xây dựng phải làm lại từ đầu, kinh phí thì quá lớn, chương trình làm sân bay mới đành hủy bỏ, đành mở rộng sân bay Tân Sơn Nhứt cho đỡ tốn kém.
Chuyến bay quốc tế đầu tiên của Hãng hàng không Pháp (Air France) bay tuyến Paris – Sài Gòn – Paris trong 50 giờ (hồi đó chưa thể bay ban đêm) mất vừa đúng một tuần lễ mới hạ cánh Sài Gòn ngày 28/12/1933, tiếp đó là tuyến Sài Gòn – Batavia.
Như vậy, trước năm 1940 là thời điểm Đại chiến thế giới thứ hai lan tới châu Á và Thái Bình Dương, đã có tuyến bay Đông Dương – Pháp mỗi tuần một chuyến do hãng hàng không Pháp đảm trách, Sài Gòn – Singapore – Indonésia do hãng hàng không Hà Lan đảm trách, Hà Nội – Hồng Kông – Pénang do hãng hàng không Anh đảm trách, Hà Nội – Vân Nam do hãng hàng không Âu – Á đảm trách, Hà Nội – Hồng Kông – Trùng Khánh do hãng hàng không Trung Hoa đảm trách.
Ngày 2/12/1937, Toàn quyền Đông Dương ký Nghị định thành lập Sở Hàng không dân dụng Đông Dương thay thế cho Sở Hàng không dân sự, để lo việc khai thác các chuyến bay.Buổi đầu xe đò
Việc vận chuyển bằng xe đò được thực hiện rất sớm giữa Sài Gòn và các tỉnh lân cận. Các nhà tư sản bỏ vốn đầu tư mua xe xin phép chạy khắp các ngả, từ thành thị đến thôn quê. Chủ xe phải tuân theo những quy định chặt chẽ để bảo đảm an toàn cho hành khách.
Từ năm 1910 trở đi xe hơi đã tiến bộ hơn nhiều, kiểu dáng thanh lịch, máy móc tối tân hơn, gồm các hiệu xe Peugeot, Panhard, Dehalaye, La Nouvelle Darracq. Những người có xe hơi riêng buổi đầu là các giới chức người Pháp hay các nhà cự phú như Lê Phát An. Năm 1923 xe chính phủ chỉ có 100 chiếc, ghi số từ C.1 đến C.100, trong đó chiếc Dehalaye C.100 của Thống đốc Nam kỳ sử dụng thuộc loại “chiến” nhất.
Lúc đầu ở Sài Gòn chỉ mới nhập vào một vài chiếc xe hơi sử dụng cho ngành bưu chính, chuyên chở thư từ và bưu phẩm đi các tỉnh lân cận: Biên Hòa, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Tân An do người Pháp lãnh thầu. Khoảng thời gian 1903 – 1908 tại Sài Gòn đã có khoảng 30 xe hơi, kiểu còn thô sơ, muốn chạy phải đốt cho máy nóng trước, mui vải bố có dây da chằng ra hai bên.
Bến xe ở đường Lê Lai (Boudonnet) bên hông tường ga xe lửa Sài Gòn, khoảng năm 1950.
ẢNH: TƯ LIỆU CỦA MAI VĂN

Về sau các tư nhân nhập xe hơi để chuyên chở hành khách gọi là xe đò. Tuyến xe đò đầu tiên được đem vào khai thác là tuyến Sài Gòn – Trảng Bàng, Sài Gòn – Tây Ninh. Trước đó, có nghị định bắt buộc chủ xe đò phải ghi trên một bảng gắn phía ngoài xe nơi dễ thấy số hành khách tối đa. Phía trong xe ghi bảng giá tiền cước từng cung đoạn. Cả hai bảng đều viết bằng tiếng Việt, Pháp và Hoa. Nếu vi phạm sẽ bị phạt tiền. Khách dư một người, chủ xe bị phạt bằng giá trọn tuyến bất kể lên chỗ nào.
Khi các hãng xe đò ra nhiều và chạy khắp các tỉnh, ngành bưu điện áp dụng thủ tục cho các hãng xe đò đấu thầu chuyên chở bưu phẩm, khỏi phải mua sắm xe riêng, tiết kiệm cho công quỹ. Chẳng hạn như ở tỉnh Thủ Dầu Một, chính quyền cho mở các tuyến xe đò kiêm luôn chuyên chở bưu phẩm.
Một số tuyến và chủ hãng xe đò trên những cung đường ngắn giữa hai thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn đi đến các trung tâm thị tứ thuộc các tỉnh lân cận hoặc từ tỉnh lỵ này đến tỉnh lỵ kia với điều kiện vận hành được quy định rất chặt chẽ: Ngày 9/9/1918 ông Nguyễn Văn Tố ở Bình Hòa Xã, hạt Gia Định được phép chạy xe đò hiệu Peugeot tuyến Chợ Lớn – Lộc Giang, số hành khách tối đa là 11 người kể cả tài xế, vận tốc 25 km/giờ; ngày 26/11/1918 ông Huỳnh Quay ở Nhu Gia tỉnh Sóc Trăng được phép chạy xe đò hiệu Clément Bayard tuyến Sóc Trăng – Bạc Liêu, chở 10 người kể cả tài xế và lơ xe, vận tốc 30 km/giờ.
Đến năm 1929 số xe hơi nhập vào Nam kỳ đã lên đến 11.000 chiếc, trong đó có 9.000 chiếc xe du lịch, còn gọi là xe nhà. Vào thời điểm từ 1935, xe hơi dùng chở khách, chở hàng rộ lên khắp Nam kỳ. Các nhà tư sản bỏ vốn đầu tư mua xe xin phép chạy khắp các ngả, từ thành thị đến thôn quê. Ngoài Sài Gòn, Chợ Lớn là trung tâm hoạt động của các hãng xe đò, xe tải đi về các tỉnh miền Đông, miền Tây, ra Trung, còn có các hãng xe chạy các tuyến trong nội vi từng tỉnh hay với các tỉnh lân cận thành một hệ thống như mạng nhện. Ngoài các cá nhân tư sản bỏ vốn mua xe kinh doanh, Công ty tàu điện Pháp ở Đông Dương cũng xin chuyên chở hành khách bằng xe hơi trên một số tuyến đường đi về các tỉnh xung quanh Sài Gòn. Ngày 23/2/1937, công ty được Khu trưởng Sài Gòn – Chợ Lớn cấp giấy phép khai thác vận chuyển hành khách với hành lý xách tay trên tuyến đường từ Sài Gòn đi Tây Ninh qua Đức Hòa bằng xe hiệu Renault 1 sức ngựa, chở được 40 người.
Việc chuyên chở hành khách và hàng hóa bằng xe đò và xe tải đang tiến triển thì năm 1945 việc lưu thông bị gián đoạn một thời gian vì đường sá bị đào phá vì chiến tranh. Một thời gian sau, quân Pháp đánh chiếm các tỉnh lỵ, tái lập các tuyến đường, cho nhập vào rất nhiều xe hơi dân sự. Trong 9 năm dưới sự kiểm soát của quân đội Pháp, ngành vận tải bằng xe hơi tại Sài Gòn và các tỉnh miền Nam phát triển mạnh.Đồng bạc dùng chung cho Đông Dương
Khi người Pháp mới chiếm được Nam kỳ, họ chưa có loại tiền riêng để lưu hành, phải dùng đồng franc của Pháp và đồng bạc Mễ Tây Cơ (còn gọi là đồng bạc con cò).
Dân chúng không quen với hai loại tiền này nên gây không ít trở ngại về tài chính buộc Pháp vẫn phải công nhận và cho lưu hành tiền nhà Nguyễn mang các niên hiệu Gia Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức bằng đồng hay kẽm.
Trong thời gian từ năm 1874 – 1879, ở Nam kỳ người Pháp cho dùng cả đồng đô la Mỹ, đô la Hồng Kông và đồng tiền Ấn Độ. Do đó, ở Sài Gòn phát sinh dịch vụ đổi tiền các loại làm cho một số Ấn kiều có dịp đầu cơ thu lợi. Nếu đem so sánh giá hối đoái theo giá chính thức, thì 1 đồng franc đổi được 600 đồng tiền của ta, 1 đồng bạc con cò đổi được 3.000 đồng tiền của ta.
Ngày 21/1/1875, tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh thành lập Ngân hàng Đông Dương, trụ sở đặt tại Paris (Pháp) và chi nhánh đặt ở các nước thuộc địa, giao độc quyền phát hành đồng bạc để thống nhất tiền tệ toàn xứ Đông Dương, trong đó có Nam kỳ, thời hạn 45 năm từ 1875 – 1920. Sau đó, lưỡng viện quốc hội Pháp quyết định tăng thêm độc quyền 25 năm nữa.
Để bảo đảm uy tín cho đồng bạc của ngân hàng, ngày 5/7/1881 tổng thống Pháp ban hành sắc lệnh bắt buộc phải dùng đơn vị tiền tệ là đồng bạc (piastre) trong việc lập ngân sách Nam kỳ kể từ niên khóa 1882. Mọi thu chi đều dùng đồng bạc của Ngân hàng Đông Dương gồm hai loại: loại đúc bằng kim khí và loại in bằng giấy.
Loại bằng kim khí có mệnh giá 1 đồng, 50 xu, 20 xu, 10 xu (thường gọi 5 hào hay cắc, 2 hào, 1 hào), 5 xu, 1 xu và nửa xu. Loại 1 đồng được đúc bằng bạc, hình tròn, đường kính 34 mm, không có lỗ ở giữa, mặt trước có hình bà Marianne nữ thần tự do (biểu tượng nền Cộng hòa Pháp), do đó dân chúng quen gọi là đồng bạc bà đầm xòe, vành phía trên đề chữ République Française, phía dưới đề năm phát hành. Đó là các năm 1879, 1885 và 1895. Loại 50 xu, 20 xu, 10 xu cũng đúc bằng bạc. Loại 5 xu bằng bạc pha kền, loại 1 xu và nửa xu làm bằng đồng điếu, cả hai loại này ở giữa có lỗ tròn. Loại nửa xu được làm vào năm 1938. Nghị định của Toàn quyền Đông Dương cho lưu hành kể từ ngày 1/1/1880 các loại hào và xu trên đây.
Các loại tiền bằng bạc rất được các nhà giàu ưa thích, thường bỏ tiền hay hàng hóa ra mua giá cao để tích trữ, do đó số tiền lưu hành trên thị trường ít dần, trở ngại lớn cho việc giao thương. Để chấm dứt tình trạng đó, năm 1917 Toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định nói rõ: ai đã mua, bán hay đổi hoặc hứa hẹn mua, bán, đổi chác các đồng bạc và hào xu của Ngân hàng Đông Dương cao hơn giá trị hợp pháp hoặc có hứa thù lao nào đó đều bị phạt tù từ 1 – 15 ngày và phạt tiền từ 16 – 100 fr hay một trong hai hình phạt đó. Việc tịch thu các đồng bạc và tiền lẻ của Ngân hàng Đông Dương có thể được cơ quan kho bạc tuyên bố nếu xét thấy có sự thiệt hại cho quyền lợi của cơ quan này.
Loại bạc bằng giấy do Ngân hàng Đông Dương phát hành gồm hai giai đoạn với một số đặc điểm khác nhau. Từ ngày 21/1/1875 đến ngày 21/1/1920, có các loại giấy bạc: 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 100 đồng. Trên tờ giấy bạc 1 đồng phát hành ngày 3.8.1891 có đóng thêm chữ SAIGON bằng mực đỏ. Sở dĩ như vậy là vì lúc in tờ giấy bạc chưa có chủ trương giới hạn khu vực phát hành. Sau đó mới có quyết định chỉ phát hành tại Sài Gòn và lưu hành trên đất Nam kỳ mà thôi.
Sắc lệnh của tổng thống Pháp chỉ cho phép ngân hàng tung ra thị trường một số lượng giấy bạc không được quá 3 lần số quý kim và đá quý tồn trữ. Nhưng đến năm 1920 tổng số đó đã vượt quá 12,6 lần, vì ngân hàng được độc quyền phát hành giấy bạc mà lại không có cơ quan nào kiểm soát gây nên khủng hoảng tài chánh trong hai năm 1919 – 1920. Dân chúng đổ xô đến các chi nhánh hay đại lý ngân hàng đòi đổi giấy bạc lấy vàng và đá quý đúng giá tương đương đã được ghi trên giấy bạc, khiến ngân hàng có thể phá sản. Để bảo vệ quyền lợi của giới tư bản tài chánh, tháng 3/1920 Toàn quyền Đông Dương tuyên bố “chế độ lưu hành cưỡng bức” đối với đồng bạc. Lại cho phép lưu hành thêm 25 triệu đồng nữa ngoài số đã có, cho phép ngân hàng không phải đổi quý kim và đá quý cho người có giấy bạc, mặc dầu trên tờ giấy bạc vẫn còn ghi câu “Payables en espèces a vue au porteur” (trả bằng vàng cho người cầm giấy bạc này).
Ngày 21/1/1920 phát hành giấy bạc lần 2. Thực ra ban đầu thời hạn độc quyền chỉ được từng hạn 6 tháng. Hết 6 tháng lại được gia hạn tiếp bằng sắc lệnh của tổng thống Pháp. Về sau thấy cứ gia hạn kiểu đó quá phiền phức, vả lại việc phát hành giấy bạc cũng chỉ có Ngân hàng Đông Dương đảm trách liên tục, chẳng có cơ quan nào xen vào nên trong phiên họp ngày 2/2/1931, Hạ nghị viện Pháp giao độc quyền cho Ngân hàng Đông Dương phát hành giấy bạc trong 25 năm. Theo đó, thời hạn phải đến năm 1956 mới hết nhưng đến cuối năm 1939 chiến tranh thế giới bùng nổ, nước Pháp bị Đức chiếm đóng, chỉ còn liên lạc với Đông Dương bằng vô tuyến điện nên ngân hàng đặt trụ sở tại Paris cũng ngưng việc phát hành giấy bạc vì không thể chở qua được.

Nguyễn Đình Tư
Nguồn:http://thoibao.com

Sài Gòn - Trăm Nhớ Nghìn Thương

Tôi là con gái Bắc kỳ chính cống, nhưng lại lớn lên ở Sàigòn, nên Sàigòn đối với tôi là một ‘quê nhà’ thắm thiết vô cùng. Tôi đến với Sàigòn, thuở Sàigòn còn là một thành phố với những hình ảnh mộc mạc thanh khiết. Gái Sàigòn đơn giản hiền hòa với áo bà ba trắng, với quần đen ống thật rộng, với đôi guốc mộc nhẹ tênh hình cái thuyền, với mái tóc dài ôm trọn khuôn mặt không chút phấn son.
Hồi mới tới Sàigòn, gia đình tôi tạm trú tại nhà bà dì ở đường Quai de Belgique, sau này đổi thành bến Chương Dương. Ðứng ở trên lầu, tôi có thể nhìn thấy quang cảnh thuyền bè đi lại tấp nập. Những chiếc thuyền chở đầy những buồng chuối vàng au, những lồng gà, lồng vịt, những chùm dừa xiêm còn nguyên cả cành nằm chen chúc nhau, khoe cái vỏ xanh láng mướt. Tất cả tượng trưng cho sự trù phú của miền Nam.
Nhà dì tôi ở gần chợ Cầu Kho nên ngày đầu tiên chúng tôi đã được một ông chú họ dẫn đi chợ. Tôi mê nhất là gian hàng trái cây bởi vì có nhiều thứ ngoài Bắc không có. Tôi còn đang trố mắt ngó những trái to tròn như trái banh có hai mầu khác nhau, trái xanh mướt như ngọc, trái tím thẫm như mầu trái bồ quân thì cô bán hàng đã đon đả nhìn ông chú tôi:
- Mua ‘dú sữa’ đi thầy hai. ‘Dú sữa’ của em đặc biệt ‘giường nhà’ ngọt lắm đó.
Thì ra mấy trái mà tôi đang ngó là mấy trái vú sữa ở vườn nhà cô ta. Hồi đó tôi mới có 12 tuổi, còn ngây ngô chưa biết nói tiếu lâm nên hơi ngạc nhiên khi thấy ông chú tôi nhìn cô ta cười tủm tỉm với đôi mắt tinh nghịch:
- Vú sữa của cô ngon thiệt hả?
Cô ta gật đầu lia lịa:
- Ngon thiệt mà thầy hai.
Chú tôi chọn mua một chục trái, cô ta đưa thêm 4 trái và nói:
- Thường một chục có 12 trái thôi nhưng là của ‘giường nhà’ nên một chục em tính 14 trái lận.
Chú tôi đưa tiền trả, thay vì phải thối lại 50 xu, cô ta cầm tờ 1$ xé toạc ra làm đôi, đưa chú tôi một nửa. Chúng tôi đi từ ngạc nhiên này sang ngạc nhiên khác. Ngày đầu tiên đã học được hai cái đặc biệt của Sàigòn. Một chục là 12 hoặc 14, nửa tờ giấy 1$ là 50 xu.
Phải công nhận người miền Nam rộng rãi và đơn giản. Một chục mà cho thêm thành 12 tới 14 và thay vì mất công đi tìm tiền xu thì cứ việc cầm tờ giấy 1$ xé béng ra làm 2 là xong ngay. Giản dị và tiện lợi biết bao.
Sàigòn đã thu phục tình cảm của tôi một cách nhanh chóng. Hai mươi mốt năm sau, khi rời bỏ Sàigòn tôi đã khóc như phải rời bỏ nơi chôn nhau cắt rốn. Sàigòn đã trở thành một nơi chốn thân thiết vô cùng.
Không yêu Sàigòn sao được khi Sàigòn là nơi chứng kiến tất cả kỷ niệm vàng son của thời con gái.
Sàigòn với ngôi trường Trưng Vương yêu dấu, nơi đã cho tôi biết bao nhiêu người thầy đáng kính, bao nhiêu người bạn dễ thương, bao nhiêu tình cảm quí mến chân thành.
Làm sao quên được con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm rợp lá me bay, những chiều tan học, tràn ngập những tà áo trắng quấn quít gót chân son.
Thảo cầm viên đã được nghe không biết bao nhiêu lời thì thầm tâm sự của các nàng Trưng Vương, những giờ nghỉ học, vừa chuyện trò, vừa lang thang hái trộm những cánh hoa mầu tím, ép vào những trang sách học trò.
Con đường Thống Nhất rộng thênh thang đưa tới rạp Norodom tưng bừng rộn rã của những ngày Đại hội Văn nghệ học sinh. Tôi như vẫn còn mường tượng thấy khung cảnh rộn ràng trong hậu trường sân khấu. Tuy bận rộn sửa soạn cho những màn trình diễn, nhưng các chàng Chu Văn An vẫn không bao giờ quên gửi đến các nàng Trưng Vương những ánh nhìn say đắm.
Chỉ một cái nhìn thật nhanh, thật nhẹ mà sao cũng đủ làm cho ai kia má phải ửng hồng.
Vòng ra bờ sông là bến tàu lộng gió của những sáng đón đưa, những chiều hò hẹn.
Con đường Lê Lợi với những chiều thứ bẩy đẹp trời cùng bạn bè dạo phố. Mỗi lần đi qua tiệm Kim Sơn ở góc đường, chúng tôi luôn luôn phải vờ chăm chú ngó mấy món hàng linh tinh bầy bán lề đường, để tránh những cặp mắt nhìn hau háu của mấy ‘ông nội’ ngồi ‘pẹc mơ năng’ ở ngoài hiên giống như mấy ‘Side-walk café’. Tiệm sách Khai Trí là nơi hấp dẫn nhất. Luôn luôn làm chúng tôi mê mẩn trước những cuốn tiểu thuyết còn thơm mùi mực mới.
Màn cuối cùng của buổi dạo phố thường thường là góp tiền lại, rủ nhau vào một tiệm kem.
Vừa nhấm nháp những thìa kem dâu, kem dừa mát rượi, vừa nghe những bản nhạc ngoại quốc nổi tiếng thịnh hành mà chúng tôi thay phiên nhau yêu cầu nhà hàng để dĩa hát, như A Certain Smile, You’re My Destiny, I Went to Your Wedding, Diana v.v...
Hôm nào có phim hay cả bọn lại rủ nhau chui vào một trong hai rạp ciné permanent Lê Lợi hay Vĩnh Lợi. Mỗi lần vào đây là chúng tôi phải đề cao cảnh giác. Vì luôn luôn có một số các chàng thanh niên hay lợi dụng sự đông đúc chen lấn để dở trò ba mươi lăm. Một hôm có một chàng làm bộ đứng sát sau lưng, tôi bèn làm như vô tình quay ngang người lại hích cho chàng một cái cùi chỏ nên thân. Tan ciné, tôi kể chuyện cho lũ bạn nghe, chúng cười hi hí có vẻ khoái chí lắm. Từ đó các bạn tôi học được màn hích cùi chỏ để trừng trị các chàng gian manh.
Sau khi xem ciné, nếu còn đủ tiền rủng rỉnh trong túi, chúng tôi rủ nhau vào hẻm Casino làm một chầu bánh tôm, bún chả. Nếu chỉ còn ít tiền, thì ra góc Viễn Ðông. Ðứng ở lề đường ăn phá lấu với thịt bò khô. Ăn xong, ớt còn cay xè trong miệng mà vẫn đủ tiền uống một ly nước mía cốt vắt thêm miếng chanh nhỏ xíu, hoặc sang hơn, vắt nguyên nửa quả quít thì còn gì sướng hơn nữa. Có hôm thay vì ăn ở góc Viễn Ðông, chúng tôi lại đi ngược chiều ra góc chợ Bến Thành. Nơi có hàng bò viên nóng hổi, thơm phức mùi tiêu với hành ngò. Sau đó, tráng miệng bằng một ly đậu đỏ bánh lọt. Hoặc rủ nhau vào quán Bà Ba Bủng ở đường Thủ Khoa Huân, sau chợ Bến Thành, ăn bún riêu, bánh cuốn. Sàigòn có không biết bao nhiêu món ngon, hấp dẫn những cái miệng thích ăn quà vặt của các nàng Trưng Vương thuở đó.
Mùa Giáng Sinh tới. Sàigòn tưng bừng như mở hội. Người ta không phải bận tâm lo mua quà tặng nhau như ở xứ Mỹ. Ðêm Noel, có đạo hay không, mọi người cũng thích rủ nhau đi dạo trên đường Tự Do. Trai thanh, gái lịch, quần áo lượt là, chen vai, thích cánh, suốt dọc hè phố từ nhà Quốc Hội đến nhà thờ Ðức Bà.
Người trẻ đi để ngắm nhau. Người lớn tuổi đi tìm không khí Noel, cái không khí mà suốt 26 năm sống trên đất Mỹ tôi không làm sao tìm lại được. Hầu như tất cả dân ‘chịu ăn chịu chơi’ của Sàigòn đều có mặt trên đường Tự Do. Ði dạo mỏi chân, mọi người lại rủ nhau vào ngồi trong Givral, La Pagode, Continental hay ngồi ở công viên rộng lớn trước nhà Quốc Hội hoặc trước tòa Ðô chánh để chờ nghe tiếng chuông đổ hồi rền rã của nhà thờ Ðức Bà báo hiệu lễ nửa đêm mừng Chúa ra đời.
Sau lễ, mọi người về nhà ăn Réveillon. Nồi cháo gà nóng hổi, khói lên nghi ngút, là món không thể thiếu trong bữa tiệc mừng Giáng Sinh đặc biệt này. Noel của Sàigòn thật vui, thật đầm ấm, thật nhẹ nhàng, thoải mái. Không có quá nhiều lo nghĩ về vấn đề tài chánh phải chi tiêu cho quà cáp. Không khí Noel ở đất Mỹ mang tính cách thương mại nhiều hơn là không khí thiêng liêng đặt biệt của ngày lễ mừng Chúa Giáng Sinh. Trước Noel cả mấy tháng người ta đã trưng bầy cây Noel để bán. Bắt mọi người phải nhìn ngắm mãi đâm nhàm chán. Gần sát ngày lễ Noel ai cũng tất bật lo chuyện mua quà, gói ghém cho kịp giờ mở quà đêm mừng Chúa ra đời. Tất cả chỉ có vậy. Ðêm Noel người ta chỉ thấy quá mệt mỏi. Rộn ràng được một chút lúc mở quà. Sau đó là hết. Trống vắng buồn tênh. Thời tiết lạnh lẽo. Nhà thờ Việt Nam thì ở xa. Kiếm được chỗ đậu xe không phải là dễ. Mùa đông buốt giá, chưa kể nếu có tuyết, đường trơn trượt nguy hiểm. Do đó ít ai nghĩ đến chuyện đi lễ nửa đêm. Bởi vậy cứ mỗi lần mùa Giáng Sinh tới là tôi lại nhớ Sàigòn da diết. Nhớ thánh lễ nửa đêm thật tưng bừng ở nhà thờ Ðức Bà. Nhớ con đường Tự Do tràn ngập người đi của những đêm Noel đầm ấm năm xưa.
Tết đến còn vui hơn nữa. Xung quanh chợ Bến Thành những gian hàng bán bánh mứt được dựng lên san sát với nhau. Tiếng rao hàng của những lao phóng thanh vang lên rộn rã. Người đi mua sắm tấp nập. Ai cũng tay sách nách mang. Ngày Tết không nhà nào là không có đủ thứ mứt, hạt dưa, bánh chưng, dò chả.
Nhắc đến Tết ở Sàigòn là ai cũng phải nhớ ngay đến chợ hoa ở đường Nguyễn Huệ với những cành đào, cành mai tươi thắm. Những chậu cúc, chậu thược dược đủ màu đua nhau khoe sắc. Những chậu quất trĩu quả vàng tươi. Những bát thủy tiên toả hương thơm thật dịu dàng, thanh khiết. Nhưng có một thứ hoa đẹp nhất làm chợ rực rỡ hẳn lên đó là hoa biết nói. Các nàng thiếu nữ yểu điệu trong những tà áo dài đủ mầu tha thướt đi dạo trong chợ hoa là hình ảnh đẹp nhất của ngày Tết ở Sàigòn.
Tôi còn nhớ thời con gái, cứ 23, 24 Tết là chúng tôi đã nôn nao sửa soạn quần áo để rủ nhau đi chợ hoa. Dạo chợ hoa là một náo nức không thể thiếu của các nàng thiếu nữ mỗi lần Tết đến. Cũng như đi chợ hoa để ngắm người đẹp là một điều bắt buộc, không thể nào quên của các chàng trai.
***
Chợ hoa ở đây sao tẻ nhạt quá. Có lẽ vì hoa không đủ thắm, lại chỉ có lưa thưa, bầy bán rải rác nên không hấp dẫn được người đi. Vả lại các chàng nếu có muốn đi chợ hoa để ngắm người đẹp, thì cũng chỉ tìm thấy những áo ‘cốt’ dầy cồm cộm, to xù xù di động. Chứ làm sao có thể tìm lại được những bóng dáng yêu kiều trong tà áo dài lả lướt của chợ hoa Nguyễn Huệ năm xưa.
Thời tiết lạnh lẽo quá, ít ai ở đây còn nghĩ đến chuyện mặc áo dài đi chợ Tết, nên hình ảnh chiếc áo dài trở nên hiếm quí vô cùng. Thật tội nghiệp cho những người Việt Nam xa xứ. Phải cố gắng tưởng tượng mùa xuân trong cái giá buốt của mùa đông. Hoa tuyết rơi mà phải tưởng tượng là hoa đào nở, gió đông lạnh lẽo mà cứ cố nhắm mắt lại để mơ tưởng đến ánh xuân nồng. Tết năm nào tôi cũng cố gắng tìm cho được một cành hoa forsythia để trang hoàng nhà cửa. Ðể tự đánh lừa mình là nhà ta cũng có mai vàng.
Tết nhất đến nơi mà sao giọng Don Hồ cứ buồn não nuột, anh chàng đang hát một bài mà tôi rất thích của nhạc sĩ Ðức Huy:
’Tôi hay nhớ về quê nhà vào buổi chiều. Nhất là những buổi chiều hay mưa. Cũng may Cali trời mưa ít không như Sàigòn. Nếu không, tôi đã khóc một giòng sông...’
* Ngoài cửa sổ, chiều nay trời thật đẹp. Những giải nắng vàng còn vương vấn trên mấy ngọn cây cao. Mấy hôm nay trời tạnh ráo, không có lấy một giọt mưa nhỏ. Vậy mà không hiểu sao bỗng nhiên lòng tôi chùng hẳn xuống và hình như hồn tôi đang ‘Khóc một giòng sông..’

Hồng Thủy, WDC.





Đi tìm ông Trạng Quỳnh


Khi biết quê hương Trạng Quỳnh ở đất Thanh Hóa, tôi đã hết sức hào hứng vì đây là nhân vật mà những thế hệ học trò nhỏ thời chúng tôi hết sức ngưỡng mộ. Chuyện này cũng dễ hiểu, vì hồi xưa trẻ em không có nhiều sách để giải trí, khi bất ngờ tìm thấy trong sách giáo khoa những câu chuyện rất hài hước, đôi khi có phần dung tục với một nhân vật ngông nghênh, coi trời bằng vung, hành xử thật bất ngờ và táo tợn, làm sao mà không thích thú!

Lâu nay cứ ngỡ rằng đây là một nhân vật đậm màu huyền thoại, ai ngờ lại có một Trạng Quỳnh bằng xương bằng thịt hẳn họi, sống vào thế kỷ 17, thời Lê Trung hưng ở làng Bột Thượng, nay là xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.

Vậy là chúng tôi có kế hoạch đi tìm nơi Trạng Quỳnh đã sinh sống... Có điều là bác tài kiêm người dẫn đường của chúng tôi, đi được nửa buổi đã thành thực tiết lộ rằng ông vốn là một sĩ quan quân đội đóng quân ở các tỉnh thành phía miền Nam, khi về quê hưu trí ở Thanh Hóa đã mua một chiếc Madza để chở vợ con đi chơi. Nay con cháu kinh doanh nhà trọ, cho thuê xe mà thiếu người lái, ông đã phải vào phụ giúp - chứ hồi xưa ông đi đâu cũng có tài xế chở!
Từ đó trở đi, chúng tôi đã phải nhào vô Google tìm bản đồ để hỗ trợ bác tài, bởi bác cũng lơ mơ không kém gì chúng tôi.

Thực ra, chương trình của chúng tôi hôm ấy rất ngẫu hứng. Trước hết là định đến thăm làng cổ Đông Sơn, nơi phát hiện những di chỉ khảo cổ của nền văn hóa Đông Sơn vào giữa thập niên 1920. Đây là làng Việt cổ, đại diện cho cả một giai đoạn lịch sử quan trọng với Trống đồng Đông Sơn, hiện thuộc phường Hàm Rồng.
Thế nhưng bác tài của chúng tôi cứ ngơ ngác cho xe chạy tới chạy lui giữa những đồi dốc, những núi đá nhỏ đặc trưng của vùng này, rồi trước mắt chúng tôi hiện ra một cánh đồng và ngã ba sông, nơi sông Chu và sông Mã gặp nhau… Chúng tôi xuống xe, dò dẫm bước qua 1 cái cầu khỉ cheo leo, rồi vào cả động Tiên dòm ngó, mà vẫn không xác định được làng cổ Đông Sơn là ở chỗ nào! Rốt cuộc, chúng tôi đành lên thăm cầu Hàm Rồng, nơi bác tài không thể nhầm lẫn được, tiếp đó là đi xem hang Mắt Rồng trước khi rời Đông Sơn để đến huyện Hoằng Hóa, xứ của Trạng Quỳnh.

Ôi, tìm cho ra cái nhà thờ họ của Trạng Quỳnh ở xã Hoằng Lộc, huyện Hoằng Hóa cũng không phải là chuyện dễ dàng, bởi bản đồ Google chưa ghi tên địa điểm này, và chúng tôi cứ phải đoán mò giữa những ngã rẽ để quyết định đi theo hướng nào. Lần lượt, tất cả các nhân sự trên xe đều phải nhảy xuống đất, chạy vào những nhà ven đường để hỏi thăm. Đến phiên tôi, gặp một vị trung niên, sau một hồi suy nghĩ bèn trả lời: “Nhà thờ Trạng Quỳnh đi theo hướng này (giơ cánh tay mặt lên) chạy qua cánh đồng chừng 1 hay nửa cây số là tới”.
Quả thực, theo hướng ấy đi một lát thì gặp cánh đồng, hỏi thăm lần nữa thì đến nơi. Cổng vào đẹp đẽ và trang trọng, một bên là ao nước, hoa súng rực rỡ nở đầy. Người chắt 8 đời của Trạng Quỳnh mở cửa cho chúng tôi vào thắp nhang ở bàn thờ bên trong. Ký ức về những câu chuyện được kể lại của Trạng Quỳnh khi xưa khiến tôi ngắm nhìn tượng ông một cách thân thiết, không chút e ngại, bởi tin rằng nhân vật từ thế kỷ 17 kia nếu có nhìn thấy chúng tôi bây giờ cũng sẽ mỉm cười hoặc nháy mắt tinh nghịch.
Chúng tôi đọc những bảng ghi phả hệ, tiểu sử của Trạng Quỳnh trên tường, tóm lược như sau:
Trạng Quỳnh tức Vĩ Hiên Công Nguyễn Quỳnh sinh ngày 1-10-1677 thời Lê Trung Hưng. Năm 19 tuổi ông thi đỗ Hương Cống nên còn gọi là Cống Quỳnh.
Năm 1696 được bổ làm Huấn đạo huyện Thạch Thất, Sơn Tây.
Năm 1718, triều đình mở khoa thi Hội, nhưng ông bỏ thi nửa chừng, trở về dạy học. Vào niên hiệu Bảo Thái đời Lê, ông được triệu ra làm Giáo thụ phủ Phụng Thiên, rồi thăng Viên Ngoại Lang Bộ Lễ.
Ông mất ngày 28-1 1748, thọ 71 tuổi.

Bảng tiểu sử này làm nguôi đi nỗi buồn của tôi từ thở bé thơ khi đọc truyện Trạng Quỳnh. Truyện kể rằng:
“ Sau khi bị chơi khăm nhiều lần, Chúa Trịnh có bụng ghét Quỳnh, đòi Quỳnh vào thị yến, định đánh thuốc độc cho chết. Quỳnh biết chúa căm chuyện trước, lần này gọi, chắc là có chuyện. Lúc đi dặn vợ con rằng:
- Hôm nay ta vào hầu Chúa, lành ít, dữ nhiều. Ta có mệnh hệ nào, thì không được phát tang ngay, cứ phải để ta vào võng, lấy kim chống mí mắt lên, rồi cắt hai đứa quạt hầu, gọi nhà trò về hát! Đợi bao giờ phủ Chúa phát tang thì ở ngoài hãy phát tang.
Quỳnh vào đến cung, Chúa bảo:
- Vừa rồi, có người tiến hải vị, ta nhớ đến ngươi, đòi vào ăn yến, người không được từ.
Quỳnh không ăn không được, vừa nếm một miếng thì Chúa hỏi:
- Bao giờ Quỳnh chết?
Quỳnh thưa:
- Bao giờ chúa băng hà thì Quỳnh cũng chết!
Ăn xong, Quỳnh thấy trong người đổi khác, cáo xin về. Vừa về đến nhà thì tắt hơi. Vợ con cứ theo lời Quỳnh dặn mà làm. Chúa sai người dò xem, thấy Quỳnh nằm võng nghe nhà trò hát, mà người nhà thì đi lại vui vẻ như thường. Chúa thấy vậy đòi đầu bếp lên hỏi xem đánh thuốc độc thế nào? Rồi Chúa nếm thử, được một chốc thì Chúa lăn ra chết.
Nghe thấy trong dinh chúa phát tang, nhà Quỳnh cũng phát tang. Chúa và Trạng đưa ma một ngày. Thế mới biết Quỳnh sắp chết vẫn gạt được Chúa. Người đời sau có thơ rằng:
"Trạng chết Chúa cũng băng hà
Dưa gang đỏ đít thì cà đỏ trôn".



Thủa nhỏ tôi cứ bàng hoàng thương xót mãi cái ông Trạng hay đùa ấy! Ông đã giễu cợt không chừa một ai, từ vua quan đến thần thánh như Bà Chúa Liễu...để rốt cuộc đã bị Chúa làm hại. Nay đọc tiểu sử, biết ông đã thọ đến 71 tuổi, con cháu thịnh đạt, được người đời tưởng nhớ, tôi cũng cảm thấy được an ủi.

Trong trong khuôn viên nhà thờ Trạng Quỳnh tôi nhìn thấy một phòng trưng bày mang tên “Con Người-Sự Kiện-Tác Phẩm”, người tài trợ là Ông bà Louis Sizaret – nhà hoạt động văn hóa tại Luxembourg.
Vậy là danh tiếng ông Trạng ngông nghênh được chúng tôi yêu quý từ khi còn thơ bé đã đi rất xa.