Đặc San HQ 21

Đặc San HQ 21
Nha Trang Ngày Về Kỳ 9

Sunday, August 17, 2025

Đào Thoát Hoàng Sa

 LẦN ĐÀO THOÁT Ở HOÀNG-SA

NGUYỄN ĐÔNG MAI K.25 VB
Gửi đến các bạn hồi ký của một người bạn đã tham dự trận hải chiến lịch sử, đã bị chìm tàu và sống sót trên một chiếc bè nhỏ.
Có 1 giai thoại tuy đáng tin cậy nhưng chưa được kiểm chứng là anh Mai đã can đảm "mooning" tụi Trung Cộng sau khi được lệnh Abandon Ship trên chiếc HQ-10 và hậu quả là anh đã bị 1 sniper của tụi Tầu Phù bắn 1 viên ngay chỗ để ngồi (Just like Forrest Gump!)
Nguyễn Cần HQ-505
HỒI KÝ TRẬN HẢI CHIẾN HOÀNG SA
Lần đào thoát ở Hoàng sa
Nguyễn Đông Mai - K25 VB Đà Lạt
Thắm thoát đã hơn 40 năm đi qua kể từ ngày hải chiến với Trung cộng ở Hoàng Sa. Để thắp nén nhang tưởng nhớ tới các đồng đội trên chiếc Nhật Tảo, HQ10 và Cố HQ/Đại Uý Nguyễn Văn Đồng, người bạn cùng khóa (Khóa25/Võ Bị Quốc Gia Việt Nam) đã HY SINH trên chiếc HQ5 để bảo vệ lãnh hải. Cùng tưởng nhớ tới Mẹ tôi, Người đã cất kỹ tập nhật ký này để không bị đốt chung với Văn bằng tốt nghiệp Võ Bị của tôi. Nay Mẹ tôi không còn nữa, nhưng Mẹ tôi vẫn sống mãi bên tôi như tập hồi ký này mà tôi vẫn nâng niu như một bảo vật.
Trong không khí của mùa Xuân hôm nay tôi xin gởi đến quí vị những hình ảnh của trận hải chiến đầu tiên và cũng là cuối cùng của Hải quân Việt Nam Cộng Hòa và Trung cộng tại Hoàng Sa.

Chiều 18/01/1974:
Con tàu mang số bù vẫn lầm lũi lướt sóng với cấp phỏng định 08:30 kể từ khi ra khỏi tầm hoạt động của đài kiểm báo 102 đêm qua. Chiều nay lên nhận phiên, tôi hơi mệt. Hồi trưa phải lo cho các ban tiếp tục sơn phết phần còn lại của chiến hạm kể cả hai hầm máy tả và hữu để chuẩn bị thanh tra sau chuyến công tác khi về tới Sài gòn, nên tôi không chợp mắt được giây phút nào. VớI vận tốc phỏng định 10 nơ (knots) một giờ, có lẽ tàu sẽ đến HoàngaSa trong ca (quart) của mình và thời điểm phỏng định là 18:00H 18/01/74. Với tầm hoạt động của chiếc SPS-53, các đảo có thể nhận thấy trên màn ảnh ra-đa khoảng 16:30H là tối đa. Thế nhưng đến 16:30H, rồi 17:00H trôi qua, nhân viên đi ca ở CIC báo lên đài-chỉ-huy vẫn chưa thấỵ Đến 17:30H mới thấy một vài vệt mờ trên màn ảnh ra-đa với khoảng cách 26 hải lý. Giờ này tôi mới xác định được vị-trí của chiến hạm mình. Sánh với route vẽ, con tàu nằm bên mặt đường chừng 6 hải lý. Nhưng HPA của Hoàng Sa báo cho HQ4 lúc ấy tôi vẫn báo cáo là 18:OOH/18/01/74 như ban đầu. Sau khi bàn giao ca lại cho Trung úy Vũ văn Bang xong, khoảng chừng 18:00H, bằng viễn-vọng kính tôi có thể nhìn thấy được hình dáng của những chiến-hạm khác cùng hòn đảo gần nhất là hòn Money ở hướng 2 giờ. Sau đó tôi và Thiếu-úy Huân (SQ/Phụ-tá Trưởng phiên) mới đi ăn tối. Cho đến giờ phút này, với mấy miếng mứt và ít hạt dưa trong đĩa, tôi cùng Huân bên tách trà đậm với điếu capstan trong tay, vẫn tươi cười, thoải mái chuyện trò, chưa một điềm cỏn con nào báo trước rằng mai đây chúng tôi sẽ vĩnh viễn xa nhau. Chúng tôi sau đó ai về phòng nấy ngủ để chuẩn bị "ca" (quart=quarter) sáng hôm sau.
Ngày 19/01/74:
Chưa chợp mắt được bao lâu, thì tất cả sĩ quan được đánh thức ra hộp ở bàn ăn (carré) sĩ quan theo lệnh của Hạm phó Nguyễn Thành Trí. Bấy giờ là 02:00H sáng. Hạm phó cho biết theo tinh thần công điện vừa nhận được, phần thiệt hại có thể về ta hết 80% tới 90%, bởi chúng ta không được khai hỏa trước, chỉ được nổ súng khi bị chiến hạm địch nổ trước. Sau câu nói này, tôi không thể không đặt lại vấn-đề khai hỏa với Hạm phó trước mặt đông đủ các sĩ quan HQ10 được rằng tại sao giữa chốn này chỉ có ta và địch lại để địch khai hỏa trước mà không phải là ta để yếu tố bất ngờ nằm về phía ta có hơn không? Lúc ấy Hạm-phó Trí mới bảo tôi rằng đây là lệnh từ Sài gòn, chúng ta phải thihành theo lệnh. Tôi đành im. (tòa soạn).
Buổi họp xong hồi 02:30H sáng. Tôi về phòng cố ru giấc ngủ, nhưng đó cũng chỉ là ý định, bởi tôi không sao chợp mắt được. Nhảy xuống giường xem đồng hồ, đã 3:10H rồi. Tôi đành đi đánh răng, rửa mặt rồi thay đồ. Tôi xuống bếp làm gói mì để dằn bụng. Lần xuống hướng phòng chief tôi đánh thức Huân dậy cùng ăn cho vui. Không ngờ vừa lúc ấy Thủy thủ trọng pháo (TT/TP) Thi văn Sinh mang lại đưa tôi một tách cà phê sữa. Sung sướng thật! Không ngờ "thằng em" nó lại mến mình vậy. Từng điã cơm chiên khuya, từng điếu Bastos xanh, những ngày cuối tháng hắn vẫn mang vô phòng ăn sĩ-quan là gì! Ăn uống xong, đồng hồ chỉ đúng 03:45H. Lệnh làm tối chiến hạm (darken ship) từ tối qua, nên giờ này tôi phải dò dẫm từng bước một theo cầu thang lên đài chỉ huỵ Chưa hết nấc thang chót tôi đã phải dội ngược chạy xuống vì còi nhiệm sở tác chiến liên hồi vang lên.
Khoảng 5 phút sau, nhân viên đã sẵn sàng và đầy đủ ở nhiệm sở. Bằng một vòng kiểm soát sân lái, tôi thấy thiếu một nhân viên ở khẩu 24. Nhân viên này là Trung sĩ/Vận chuyển (TS/VC) Lân đã nằm bệnh viện trước khi tàu đi công tác. Tôi chuyển bớt một nhân viên ở khẩu 81 ly là TT/BT (Bí thư) Thành sang làm phụ xạ-thủ khẩu 24. Như vậy khẩu 81 ly giờ còn hai nhân viên: TS/TP Trọng và HS/VC Ngô văn Sáu. Được lệnh tôi, TS/TP Trọng xuống hầm đạn 81 ly ở sân lái lấy lên 15 viên xuyên phá (HE). HS/VC Sáu tháo các nắp bao ra và để đạn giữa chân khẩu 81 ly và cầu thang gỗ. Với ý định lấy thêm đạn nữa, nhưng sáng nay biển động mạnh nên TS/TP Trọng chỉ mang thêm được 5 viên nữa và sắp hàng ở chân khẩu 81. Theo đề nghị của TS/TP Trọng-HSQ/P4 ngành TP - thì cần bớt charge lại để giảm sự thông nòng cùng những trở ngại khác liên quan tới vấn đế bảo trì. Tôi không đồng ý với HSQ/TP Trọng bởi lý do rằng ở đây tôi sẽ dùng trực xạ chứ đâu phải bắn yểm trợ cho đơn vị bạn trên bờ đâu?
Khoảng 04:30H theo báo cáo từ ĐCH, nhìn lên đỉnh đầu tôi thấy hai đốm sáng bay thật nhanh. Tất cả các khẩu súng, ngoại trừ khẩu 76.2 ly và cây 81 ly, đều quay về hai mục tiêu di động này. Chừng một tiếng đồng-hồ sau, lại hai đốm sáng bay từ hướng 9 giờ qua hướng 3 giờ rồi biến mất. Đến 06:00H hai đốm sáng bay ngang chòm Đại hùng tinh. Lần này đốm sáng thấy rõ hơn hai lần đầu, có lẽ 2 phản-lực cơ này bay thấp hơn. Lại một phen nữa các khẩu súng không ngừng bám theo các mục tiêu di động. Bấy giờ trời cũng đã gần sáng, tôi cho ba nhân viên vận chuyển tháo các dây an toàn và cột cờ ở sân lái luôn. Khoảng 08:30H nhân viên than đói, tôi cho ở mỗi khẩu súng được cử một nhân viên vào nhà ăn lấy phần ăn cho đồng bạn. Nhìn họ chuyền ca cháo (tép?) từ người này sang người khác để điểm tâm, tôi không khỏi xót lòng cho họ hay xót xa cho chính thân phận mình cũng thế bởi tôi có hơn gì họ đâu?
Kể từ lúc vào nhiệm sở tác chiến cho đến khi tác chiến thực sự xảy ra, tôi không nhớ lệnh CHUẨN BỊ TAC XẠ đã ra bao nhiêu lần! Mười phút sau khi khai hỏa, chúng tôi được biết qua ear-phone là ĐCH bị thương nặng. Lúc này HQ10 hầu như vẫn bình thường. Bao nhiêu hỏa lực hầu như vẫn ào ạt vào chiếc 396 của Tàu Cộng. Cho đến giờ phút này tôi vẫn còn nhớ rõ sau phát súng đầu từ khẩu 81 ly, đến phát thứ hai được điều chỉnh cao hơn, TS/TP Trọng đã chính xác nhắm vào chiếc 396 của địch. Ngay ĐCH của tàu địch lóe sáng với cột lửa lớn trong tiếng hò reo của nhân-viên. Các khẩu 40 ly và 20 ly ào ạt nhả đạn, không chịu buông tha tàu địch. Cũng chính trong lúc này nhân-viên ở hầm máy trước được kéo lên mình mẩy nám đen trong tiếng rên thét thảm khốc của họ. Bấy giờ chiếc 396 như tiến lại gần tôi hơn từ phía lái. HS/VC Ngô Văn Sáu và HS/VC Lê Văn Tây vẫn ngang nhiên ghì nòng súng làm tròn phận-sự của mình trước tinh thần hầu như bấn loạn của các nhân-viên khác. Rồi chừng 15 phút sau một tiếng va chạm mạnh làm chúng tôi té nhào trên sàn tàu. Tôi chợt nghĩ đến chuyện tàu lên cạn vì vùng này có nhiều san hô. Sau này khi đào thoát tôi mới biết HQ10 đâm vào tả hạm chiếc 396. Giờ này mọi nhân viên trên chiến-hạm hầu như đều hoang mang nếu không nói mất hết tinh thần trong tiếng đạn nổ khắp tứ tung và khói đen mịt mùng của con tàu. Đâu đây thoáng bóng một nhân viên từ lỗ cửa tròn trên sân giữa bước xuống cho biết tàu địch sắp tràn qua bắt sống. Bằng cánh cửa ra sân lái, tôi chạy ra sân sau xem xét tình hình - Ôi thôi HQ10 của tôi đã bất động. Dưới chân tôi, sát chân cầu thang lên sân giữa, Trung-úy Cơ-khí Thành, người bạn thân-thiết của tôi đang sõng sượt thở dốc từng hồi. Nhìn kỹ hơn, tôi thấy hai chân của Thành hầu như lìa khỏi thân mình, mặt mày cháy đen. Tất cả hệ-thống liên lạc nội bộ không còn, chiến hạm tối đen. Nhân viên phòng tai báo cáo không dập tắt nổi ngọn lửa và nước đang vào các hầm máỵ Chạy lên sân giữa, tôi gặp nhân-viên dìu HP Trí tựa lưng vào thành Khẩu 42. HP ra lệnh đào thoát gấp, giờ chúng ta không làm được gì hơn. Một vài nhân viên chạy ra sân sau thông báo đào thoát theo lệnh HP. Từ sân giữa, phía hữu hạm, nhìn về chiếc bè cấp cứu giờ này đã trôi quá xa chúng tôi. Tôi ngao ngán nhảy khỏi tàu như những nhân viên khác để bơi về phía chiếc bè giờ này chỉ còn bằng ngón tay cái. Có lẽ tôi đã mất ít lắm là mười phút mới đến bè nổi cùng chiếc phao cá nhân bên hông. Khi lên được bè nổi nhìn lại đồng hồ thì nó đã đứng từ hồi 11:07H. Hướng về chiếc HQ10, con tàu vẫn còn mịt mùng trong khói đen.. Sau lưng tôi còn mỗi mình chiếc HQ16 vừa nghiêng vừa chạy về hướng Tây. Sau mấy vòng chạy quanh bắn xối xả vào HQ10, hai chiếc tàu địch 281 và 282 bỏ chạy và trả lại sự yên lặng thê lương cho biển cả trong màu nắng héo hon của những ngày cuối năm (âm lịch).
Chiều 19/01/74:
Chiều nay biển hãy còn đọng. Từng đợt sóng vẫn vô tình vồ vập lên bốn chiếc bè tập thể của chúng tôi trong sự vắng lặng thê thảm của một ngày chiến đấu mệt mỏi. Trên chiếc bè thứ hai sau tôi, TS/QK Tuấn sắp ra đi vì vết thương nặng trên trán, TS/VC Đa dùng những sợi ny lon buộc chặt thân mình vào chiếc bè cho chắc ăn. Vào khoảng 17:30H, xa xa ở hướng ĐB chúng tôi thấy có bãi cát trắng cùng hàng cây xanh của đảo Drummond. Tôi đứng lên khuyến khích mọi người hãy cùng nhau ráng sức chèo về hướng này. Những tiếng dzô dzô vang lên mỗi khi mái chèo (đúng hơn là những mảnh gỗ gỡ ra từ chiếc bè nhỏ mà ban vận chuyển đóng lấy để sơn cốc tàu khi còn ở Sài-gòn) khoắn vào nước. Nhưng chẳng bao lâu những tiếng hò dzô đó cũng thưa thớt dần theo màu nắng của chiều tàn. Rồi hòn đảo Drummond cũng biến theo bóng đêm. Mọi người không ai bảo ai đều dừng tay như ngầm bảo giờ đây ta tạm nghỉ, rồi sáng mai hãy tiếp tục. Thế là chúng tôi tựa lưng vào nhau nghỉ khi nước ngập tới ngực.
Ngày 20/01/74:
HP Nguyễn Thành Trí đã trút hơi thở cuối cùng vào 02:00H sáng ngày tháng này. Đây là báo cáo của các nhân-viên từ trên bè thứ năm (chiếc bè đã không trôi chung theo nhóm bốn bè của chúng tôi). Sáng sớm hôm nay bừng mắt dậy, từng người đứng lên cố tìm hòn đảo Drummond thấy ngày hôm qua, nhưng than ôi, dịp may không hai lần đến! Chúng tôi đã trôi dạt tới phương nào rồì, có lẽ đã quá xa vùng hải chiến ngày qua rồi. Căn cứ vào sự trôi dạt của chiếc bè tập thể ngày hôm qua khi đào thoát khỏi chiếc HQ10, tôi cho rằng Drummond phải nằm hướng TB của chúng tôi. Bốn chiếc bè buộc vào nhau vẫn nổi trôi theo dòng nước, lềnh bềnh theo con sóng. Hai mảnh gỗ được chuyền từ tay người này sang tay người khác. Sáng nay chúng tôi vẳng nghe như trong gió có tiếng súng lớn nhỏ. Tôi cũng không quên căn dặn nhân viên trên bốn bè khi giao cho họ ba lon nước ngọt rằng đến tối mới được uống nữa. Tôi vẫn nhắc đi nhắc lại hoài với nhân viên rằng đói không chết mau như như chết khát đâu. Ta có thể nhịn đói không ăn nhưng chịu khát không quá một ngày để khuyên nhủ họ uống thật tiết kiệm. Rồi một ngày cũng trôi qua trong sự mõi mòn chờ đợi và hy vọng... Hy vọng một bàn tay vô hình nào đó sẽ đưa đẩy chúng trôi dạt về với loài người, đến một vùng nào cũng được mang hình ảnh của sự sống. Một hoang đảo nào đó cũng được, cho dù chưa một lần loài người đặt chân tới, chúng tôi cũng mưu sinh được nhờ vào loài hải-âu và cây lá.....Và với quần aó này trên người, chúng tôi sẽ mang cất để dành cho một tháng ngày nào đó cho dù là mười, hai mươi hay ba mươi sau nếu còn sống, tôi sẽ mặc vào trở về với loài người khi loài tìm được chúng tôị... Nhưng bài học hôm qua đối với chúng tôi quá đắt đã kéo tôi về với thực tại, tôi cố khuyên nhủ các nhân viên đừng bước lên vết xe cũ...Rằng nếu đêm qua chúng ta đồng lòng không nãn chí thì đâu đến nỗi giờ này còn lênh đênh trong vô vọng. Thế là chúng thay phiên đi ca. Mỗi phiên có hai người chèo từ mỗi bè. TS/GL Vương Thương đã giao cho Ch.Úy Tất Ngưu một "la-bàn từ" bỏ túi để kiểm soát hướng, còn nhân-viên chèo để ý hướng nhờ vào chồm sao Thiên Hậu Cassiopeia (hướng TB).
Ngày 21/01/74:
Tin Tức Thời Tiết hôm nay: Biển 2; Vân độ 6/8; Gió: ĐB; VKĐ: 8 Hải-lý.
Có lẽ để bù đắp lại công lao suốt một đêm nhọc mệt thay phiên đi ca, sáng nay khoảng hơn 06:00H sáng, chúng tôi nhìn thấy có ánh hỏa châu lóe lên từ hướng Bắc. Có lẽ tàu bạn tìm cứu? Sau hai ngày vô-vọng sáng nay chúng tôi như bừng tỉnh thấy ánh châu-màu đầy hy vọng. Khi thấy được ánh hỏa châu, Th.Úy Hùng đề nghị rằng bè anh sẽ tách rời khỏi ba bè để có thể chèo nhanh về hướng có hỏa châu để cầu cứu.. Chúng tôi đều đồng ý vì cùng đi bốn bè một lúc thì quá khó khăn, chi bằng để một bè đi đến gặp sẽ thông báo đơn vị tìm cứu nhanh hơn. Đám mây xám có hình dáng một con quái vật nơi phát ra ánh châu giờ này gần như cũng tan biến vào những cụm mây khác. Niềm hy-vọng chúng tôi vừa tìm đươc lại sáng nay cũng tan theo. Tiếng rên của TS/GL Vương Thương càng lúc càng yếu dần, chưa đầy nửa tiếng sau hắn ra đi. Đến trưa hôm nay trên ba bè chỉ còn hai lon nước ngọt, phần kẹo đã hết từ chiều qua. Kể từ lúc này tình trạng lương thực thật bi đát. Mọi người đều như tuyệt vọng. Không một tia hy vọng nào còn le lói được trong chúng tôi. Chúng tôi chỉ còn ngồi chờ. Chờ gì đây?-Chết? - Phải, cái chết ở ngay trước mắt đó. Hay chờ đuợc cứu sống? - Cũng có thể với hy-vong của một phần triệu: cứ ngồi yên đây, không hoạt động gì, rồi lịm đi ít ra cũng thoi thóp được năm hay sáu ngày nữa nhờ vào số lượng mỡ dự trữ trong cơ thể. Đây là giải pháp bắt buộc và cuối cùng của chúng tôi (không làm gì được hơn!). Đến 18:00H thì chiếc bè của Th.Úy Hùng về nhập lại thành bốn bè và buột chùm nhau. Như thường lệ, mỗi người tìm một vị thế thoải mái nhất cho mình (nhưng vẫn phải tôn trọng sự cân bằng cho chiếc bè vốn đã bị đạn địch bắn vỡ) để có thể ngồi ngủ yên suốt đêm. Nếu bảo là ngủ thì không đúng nghĩa, mà là ngồi yên để thiếp đi vì mỏi mệt, đói khát và lạnh giá. Có khi chúng tôi chập chờn được vài giấc mà đồng hồ mới 21:00H. Th.sĩ Quản Nội Trưởng Châu và TT/TP Va suốt đêm mê sảng nhảy xuống nước hoài làm khổ lây những nhân-viên khác lọt xuống nước luôn vì bè mất thăng bằng.
Ngày 22/01/74:
Còn chờn vờn trong cơn mê mệt, lại bị đánh thức dậy vì bè đã bị đứt. Mở mắt nhìn quanh, không một bóng dáng chiếc bè nào khác hơn ngoài chiếc của mình. Giờ này đã rạng đông. Phải đợi sáng nhân viên trên bè tôi mới thay phiên đứng lên tìm những chiếc bè kia. Mãi đến khi mặt trời lên cao, chúng tôi mới thấy tít tận ngoài xa một chiếc bè đỏ. Nhìn kỹ hơn nữa quanh tôi thật xa cũng có hai chiếc bè đỏ nữa. Từ phút này tôi chỉ còn biết sức khỏe nhân viên trên bè tôi thôi gồm bảy người: Tr.Úy: Hoà, Thì, Mai, Ch.Uý Ngưu, TT/BT Thành và TT/CK: Hà và Hoà. Đến trưa hôm nay có ba nhân viên trên bè tôi có sức khoẻ quá kém, có lẽ không qua khỏi đêm nay. Đó là: Tr.U/Hòa, Ch.U/Ngưu và TT/CK Hoà. Họ than van lạnh, khát và tiểu không được. Từ sáng nay tôi phải dùng nước tiểu của mình, sau khi chộp được một con cua con nhai ngấu nghiến. Đến xế chiều TT/BT Thành lếch tấm thân bồ tượng ra giữa tấm bửng làm gãy hết mấy miếng gỗ kê lên trưa qua. Giận thằng này thật!, to con không được tích sự gì, lại hay than van rên rỉ nữa! Lại tiếp tục ngâm mình trong nước như những ngày trước. Chiều nay một chiếc B52 bay từ hướng Tây sang Đông. Giống như chiều ngày hôm qua (bay từ Đông sang Tây) chiếc B52 chiều nay vẫn hiên ngang băng mình về hướng Guam mặc tình cho chúng tôi mỏi mòn lắc lư mảnh giấy bạc trong tay xin cấp cứu. Thêm lần nữa chúng tôi thắm thía chữ "BỊ BỎ RƠI!" Chúng tôi tiếp tục tìm về giấc ngủ ngồi ngâm trong-nước...
Kìa! Có tàu!
Tiếng từ một nhân viên nào đó trên bè tôi la lên. Bao cặp mắt mở bừng. Một thương thuyền sơn đỏ và đen. Như một cái máy, chúng tôi ai nấy đều khoắn hai tay trong nước cố đưa bè mình về hướng con tàu. Một, hai, ba, Ơi.... Tay khoắn nước, miệng la Ới lên một lượt may ra tàu mới nghe được. Chiếc áo phao cá nhân trên người, tôi cởi ra, đưa lên cao tôi vẫy. Bây giờ là 6:00 giờ chiều, và nắng nắng cũng sắp tắt. Tôi đề nghị tất cả mọi người nhảy khỏi bè, vừa bơi vừa đẩy bè đi may ra nhanh hơn. Chiếc bè vẫn ì ra đó, chẳng thấy nhích thêm được tí nàọ Không biết vì trông mau tới tàu hay sức khỏe chúng tôi chẳng còn bao nhiêu. Có lẽ cả hai nguyên do đều đúng. Rồi ánh đèn từ chiếc tiểu đỉnh cũng hướng về phía chúng tôi. Tiếng Tr/U Ph.V. Thì thì thào bên tôi: Mai ơi, đây là thực hay ảo đây Mai? Khi nhân-viên thương thuyền đưa tôi lên tàu thì đã 9:00 giờ đêm. Đây là bè thứ ba được vớt lên tàu. Đêm nay tôi đón giao thừa trong cơn sốt mê man như các bạn đồng hành khác...
HQ/Tr.U Nguyễn Đông Mai
Chi-tiết và tổng kết
• Quân số HQ10 = 73 Nhân viên (12 SQ, số còn lại là HSQ và TT).
 

• Biết rõ có 3 Nhân viên vắng mặt vì lý do đau bệnh hay vì lý do khác khi HQ10 rời Sài gòn đi công tác. Ba nhân viên đó là: -TS/BT Bằng, -TS/CK Lân (gọi là Lân Râu) và -TS/CK Tăng Cang. TS/BT Bằng là một HSQ Binh lương của chiến hạm và cũng là người lo cho những nhân viên sống cũng như những nhân viên tử thương của HQ10 cho nên sẽ là người biết rõ hơn ai hết về quân số cũng như ai còn, ai mất. Không biết TS/BT Bằng hiện ở đâu, mất còn như thế nào? Tôi nghĩ Bằng sẽ là Nguồn Tin Tốt Nhất. Còn TS/CK Lân có lẽ cũng đã giúp TS Bằng trong thời gian đau khổ đó. Vơi lại Lân có thể biết đồng đội cùng ngành của mình hơn người khác. TS/CK Tăng Cang hình như đi Pháp vì đã nói vậy với tôi ở Guam.
• Tổng số nhân viên đào thoát trên 5 chiếc phao tập thể = 28 người (Biết rõ). Có 8 nhân-viên (biết rõ con số nhưng không nhớ hết tên từng người) đã chết vì vết thương nặng hoặc sức quá yếu do thiếu nước và thực phẩm trước khi được tàu Hòa-Lan cứu. Qua sáng ngày 23/1/1974 nhân phát giác Th.S/Quản Nội Trưởng Châu chết (ngồi trên toilet ở tàu). Số người sống sót còn lại là 19.
Số tử thương theo HQ10 = 73 - (19 Đào Thoát +1+8+3 Sai Gon) = 42 Nhân viên liệt kê dưới đây:
• HT/ThTá Ngụy Văn Thà, chết nằm sấp trên Đài Chỉ Huỵ
• Đại-Úy/HP Nguyễn Thành Trí Khóa 17 (chết lúc 2:00AM ngày 20/1/1974 vì vết thương ở trán)..
• Tr.Úy Vũ Văn Bang, K19, SQ III, chết tại phòng CIC. Ngày rời Sài-gòn đi công tác Tr.Úy Ban có mang tấm hình đứa con gái đầu lòng chưa đầy tháng theo và cho các SQ trên tàu xem. Tôi không biết vợ con của anh giờ ra sao?
• Tr.Úy/CK Nguyễn Chí Thành, K21, ngươi ở chung phòng khi tôi về Nha trang học hải nghiệp trong mùa quân-sự 2 tháng và cũng là người bạn thân, mặt bị cháy nám đen, hai chân hầu như lìa khỏi thân người được đưa lên từ hầm máỵ. Tôi nhớ lúc đó Thành đã có ít lắm là một con rồi. Tôi cho vợ Thành hay sự việc khi chị gặp tôi ở BV/HQ ở Sài-gòn.
• Tr.Úy/CK Huynh Duy Thạch, từ HHTT qua (Cơ-Khí-Trưởng), đã lập gia-đình rồi.
• Tr.Úy Nguyễn Văn Đồng, K25 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam Dalat (tòa soạn), (Trưởng Khẩu) chết mất mặt tại khẩu 76.2 ly ở sân trước.
• Th.Úy Vũ Đình Huân, K23 hay K24, SQ/PhụTá trưởng phiên cho tôi, chết trên ĐCH với HT.
• Th.S/Quản Nội Trưởng Châu chết ngồi trên toilet ở tàu.
• Th.S/VCh. Lễ không rõ nhiệm sở tác chiến ở đâu trên tàu. (tay lái)
• TS/CK Nguyễn Tấn Sĩ. có lẽ đã chết tại hầm máy.
• TS/TX Lê Anh Dũng.
• TS/ĐT Trung lo truyền tin.
• TS/GL Vương Thương ra đi khoảng trưa ngày 21/1/1974.
• TS/QK Tuấn (TS/VT Tuan) chết vào chiều 19/1/1974.
• TS/TP Nam (76 ly).
• 4 nhân-viên kia trên những chiếc phao khác nên tôi không biết họ ra đi lúc nào. Vào đêm 22/1/1974 tàu Hòa-lan vớt lên được 20 nhân-viên từ 5 chiếc phao. Qua sáng ngày 23/1/1974 nhân phát giác.
• HS/VC Lê Văn Tây, học trung học từ Ban-mê-thuột, ghì nòng súng cho đến giờ phút chót, chết ở sân lái.
• HS/TP Trứ (76 ly).
• HS/TP Hùng mập (76 ly).
• HS/GL Ngô Văn Ơn.
• TT/TP Đức ù (76 ly).
• TT/ĐT Thanh.
• TT/TP Thi Văn Sinh.
• TT/TP Mến bị thương và chết tại khẩu 42 bên tả hạm.
• TT/CK Đinh Hoàng Mai.
• (HS/VC Trứ
• (------------)
Số người sống sót còn lại là 19 (biết rõ con số nhưng không nhớ hết tên từng người):
• Tr.Úy Ngô văn Hòa, HQĐB, Ngô Hòa, Khóa 1ĐB SQ duy nhất được thăng Đ.Uý, không biết đang ở đâu (Thăng cấp Đại Úy tại Bệnh Viện Đà Nẵng. Mất ở Saigon.)
• Tr.Úy: Phan Văn Thì, K20 (Khóa20) , Phạm Văn Thì hình như đi Canada năm 1975.
• Tr.. Úy Nguyễn Đông Mai, VBĐL K25 (Tôi)
• Th. Uý Hùng K23 hay K24 (?) nhiều Hùng (có lẽ sống ở Mỹ vì có gặp ở Guam năm 1975).
• Ch. Uý Tất Ngưu SQ/AT, OCS Khóa 10.
• HS/BT? Hoàng hình như là HSQ duy nhất được thăng TS/BT.
• TT/CK Hà (HSTP?) thăng-cấp Hạ Sĩ I TP: Vương-Văn Hà ???)..
• TT/CK Hoà
• TT/VC Long
• TT/BT A
• TT/TP Va
• Còn 8 nhân viên sống sót còn lại tôi không nhớ được là ai.


Monday, March 24, 2025

Nếu Có Kiếp Sau

Nếu có kiếp sau xin đừng nói câu xin lỗi

Câu chuyện kể của một người Phụ nữ Saigon trước năm 1975 – Một câu chuyện tình đầy cảm động của chị trong thời li loạn.
Lần đầu gặp anh , chị mới 16 tuổi , nhỏ xíu , tóc bó đuôi gà , đôi môi mỏng lém lỉnh . Hôm ấy ba chị đưa về nhà một thanh niên trẻ người Mỹ , giới thiệu người phụ tá của mình với gia đình , anh đã nhìn chị không chớp mắt …
Đến khi chị vênh mặt hỏi anh : “ Tôi có chỗ nào không ổn …? Anh mới ngượng ngùng sực tỉnh , lí nhí … nói câu xin lỗi !
Không biết sao anh bị chị thu hút , đến mất hồn , mất vía , còn chị thì tỉnh rụi , chẳng để ý gì đến anh chàng người Mỹ đồng nghiệp của ba mình . Sau đó anh hỏi ba chị thuê hẳn một tầng lầu trên cùng để ở , thì chị và anh gặp nhau mỗi ngày… Sống chung nhà nhưng đường ai nấy đi , đối với chị , anh là đồng nghiệp của ba , người lớn rồi , nên chị không coi anh như bạn bè của mình . Nhưng rồi chị cũng biết anh mới 24 tuổi , đến từ Washington DC , nhiệm sở ở Vietnam này là công việc đầu tiên của anh sau khi tốt nghiệp Đại học . Tuy còn bỡ ngỡ với xã hội Vietnam , nhưng lạ một điều là anh nói tiếng Việt giọng Bắc rất chuẩn và lưu loát như được Đào tạo qua trường lớp đàng hoàng . Anh ít nói , nghiêm nghị , nhưng mỗi lần gặp chị , anh lúng túng , mặt mày đỏ gay , làm chị nổi tính nghịch ngợm , muốn trêu anh .Có lần trong bữa ăn , chị đưa cho anh quả ớt tròn đỏ , rất đẹp , chị bỏ nguyên một trái vô miệng và nói với anh “: Ngon lắm …!” Và bảo anh ăn thử … Anh tưởng thật, bắt chước chị , bỏ vô miệng nguyên trái , nhai rốt rột .., rồi anh sặc , anh ho , anh khóc …còn chị nhả trái ớt ra, ôm bụng cười ngặt nghẽo . Anh cay quá, có ý giận, cầm cốc nước bỏ lên lầu một mạch.
Đến tối không thấy anh xuống , thấy cũng tội nghiệp , chị sai cậu em bưng lên cho anh ly nước đậu nành tạ tội , nhưng cậu em xuống nói anh ấy không có ở trên lầu, đi đâu rồi . Chị có ý đợi , muốn thử coi sau khi ăn trái ớt , mặt mũi anh ra sao. Nhưng mấy ngày liền anh không về, nghe ba nói với mẹ là anh đi công tác. Cả tuần không gặp, chị bỗng thấy thiếu thiếu, chị nghĩ có lẽ tại mình chơi ác với người ta nên mình thấy có lỗi, áy náy đó thôi.
Tuần sau anh về , bước vô nhà thấy chị , còn tức nên vờ như không thấy , anh xách Vali đi thẳng lên lầu , từ đó anh luôn giữ vẻ mặt lạnh lùng làm chị thấy tự ái ghê gớm .
Một hôm chị đang học thi tú tài , ban đêm ở trường thày Hai Ngô về , từ đường Nguyễn Huệ đạp xe về tới nhà chị cũng thấy khá xa . Vừa tới góc ngã ba hơi tối , xe chị tự nhiên trở chứng , phải dắt bộ về , đường tối chị thấy sợ ma . Vừa đi vừa run, vậy mà xui khiến sao gặp anh đang Lái xe đi ngang mặt , tài thật , anh nhận ra chị ngay và “ de “ xe ngược lại . Dù đang giận , nhưng chị cũng để anh giúp , đem xe về nhà , Trên đường về anh không nói , chị cũng không ( đang hờn mát mà ) . Gần tới nhà , anh quay qua nhẹ giọng hỏi chị : “ Sao em ghét tôi quá thế ?”
Bị hỏi bất thình lình , chị ấm ớ : “ Tôi có ghét anh đâu !”
Anh nhìn vào mắt chị : “ Thế sao em vẫn muốn tôi khóc , để em cười ?”
Tự nhiên chị thấy lúng túng . May quá tới nhà , chị cảm ơn rồi vội vã xuống xe vào nhà, để anh ngẩn ngơ nhìn theo…
Đêm ấy lạ ghê , không ngủ được , chị cứ thấy đôi mắt như hai ánh sao của anh chập chờn trước mặt ,lần đầu tiên chị bị mất ngủ vì một chàng trai . Sáng ra , trước khi đi học , chị cố ý chờ xem có gặp anh không , nhưng không gặp , đến giờ chị phải đi học rồi . Chiều về chị cũng không gặp . Ba chị nói , anh về nước có chuyện gấp , mấy ngày anh không có ở nhà , chị như người mất hồn , cứ đi ra đi vô , ăn ngủ không yên …
Đến khi anh về , vừa thấy anh bước vô từ cửa, chị mừng như bắt được vàng , ánh mắt long lanh , chị cười nói huyên thuyên . Anh bỏ Vali xuống , âu yếm nhìn chị và cuối cùng hỏi chị một câu :” Em nhớ tôi lắm hả ?”
Câu hỏi bất ngờ làm chị khựng lại mấy giây , đỏ mặt , xấu hổ … như ăn trộm bị bắt quả tang ! Chị vờ có việc kiếm cớ bỏ đi .
Sinh nhật 17 tuổi của chị , chị mời bạn bè tới nhà chơi , một đám choai choai con nít , nói cười ầm ĩ . Tới tối tiệc tan , lúc về phòng ở lầu hai , chị đã thấy anh đứng đó , trong bóng tối , chìa ra cho chị một bó hồng , rồi anh lặng lẽ bỏ đi . Ôm bó hoa , chị hồi hộp … Về phòng , cả đêm chị cứ ngắm bó hoa , từng cánh hồng nhung mềm mại , đẹp ơi là đẹp ! Mở ra trong cánh thiệp mỏng có bức thư ngắn kèm theo :
“ Em của tôi
Lần đầu gặp em , em đẹp như một bức tranh
Lần thứ hai gặp , em tinh quái như một con mèo
Lần thứ ba gặp , con mèo đánh cắp trái tim tôi
Bây giờ , tôi bắt đền …em để trái tim tôi ở đâu ?
Tôi muốn xin em trả lại …!”
Trời đất ! Giờ phải làm sao đây ? Đọc xong bức thư , chị tái mặt . Lại cả đêm trằn trọc , sáng dậy , chị không dám ra khỏi phòng , lỡ gặp anh thì biết ăn nói làm sao ?
Mối tình của chị bắt đầu như vậy , dễ thương và nhẹ nhàng .
Năm ấy chị thi Tú tài IBM lần đầu ở Qui Nhơn . Tràn đầy tự tin , chị xúc tiến thủ tục đi du học .
Nhưng một sáng đầu năm 1975 , anh đi Saigon họp khẩn cấp và không trở về . Toàn bộ nhân viên Ngoại giao Mỹ được lệnh rút khỏi miền nam Vietnam . Anh gọi điện cho ba chị , xin ông đưa cả gia đình đi, anh sẽ sắp xếp chuyến bay , nhưng ba chị không chịu ! Anh lại xin ba chị cho cưới chị để đưa chị theo nhưng ba chị đời nào chịu để con gái ông lấy Mỹ !
Những chi tiết này chị không hề hay biết , cứ thấp thỏm chờ và trong lòng thầm trách anh sao nỡ bỏ đi không một lởi từ giã …!
Biến cố năm 75 ập tới , ba chị đi tù , nhà cửa bị tịch biên hết , giấc mộng du học của chị vỡ tan . Cả gia đình chị tan tác như những chiếc lá rơi rụng cuối Thu , chị buồn đau một thời gian dài …
Rồi chị cũng gượng dậy giúp mẹ bôn ba , buôn bán nuôi đàn em dại . Và chị lấy chồng , hai vợ chồng tương đối hạnh phúc nhưng lại gặp phải bà mẹ chồng khắc nghiệt nên làm chị kiệt quệ cả tinh thần lẫn thể xác . Chị thất vọng về chồng mình , vì anh rất sợ mẹ , không bảo vệ được chị , dù chị bụng mang dạ chửa vẫn phải làm việc quần quật không khác gì con ở , nên với chồng , chị có phần oán trách và tình cảm chị dành cho chồng có phai nhạt đi ít nhiều . Đứa con gái ra đời cũng không cứu vãn được vấn đề . Mẹ chồng lúc nào cũng chì chiết , hà khắc với chị , chị cô đơn trong gia đình nhà chồng , đến nỗi có lần chị xin chồng li dị , vì thấy mình khổ quá , chịu không nổi nữa ! Nhưng rồi chị phát hiện mình mang thai đứa con thứ hai. Đành vậy , có những lúc buồn , chị ôm con mà nhớ quay quắt về anh , với những thương yêu cũ . Sau này chị đã biết rõ câu chuyện do ba chị trước khi đi tù , đã kể lại với giọng ân hận : “… Biết vậy ba gả con cho nó!” Khi chị biết anh đã tìm đủ mọi cách có thể để đưa chị đi nhưng tình trạng hỗn loạn lúc bấy giờ , anh không làm sao hơn được , chị tin chắc anh cũng đau lòng như chị , khi đành phải xa nhau. Và chị chấp nhận số phận , không còn oán trách anh nữa. Sau đó không lâu , có một người lạ mặt tới đưa cho má ít tiền kèm địa chỉ và số Điện thoại của anh ở bên Mỹ . Chị cầm đọc mà hai hàng nước mắt chảy dài , chẳng biết để làm gì , nhưng chị vẫn cất kĩ địa chỉ và số Điện thoại của anh , để thi thoảng lấy ra nhìn , mà lòng buồn vời vợi …
Mang thai lần này chị yếu hẳn , thai 7 tháng mà bụng chị nhỏ xíu , thân hình gầy khô như que củi , đôi lúc nhìn vô gương chị không nhận ra mình , đứa con gái xinh đẹp , nhí nhảnh , năng động năm xưa đâu rồi nhỉ ?
Bỗng một tối chồng chị về , mẹ con thầm thì to nhỏ, có chuyến đi vượt biên . Mẹ chồng muốn mẹ con chị ở lại , để chồng đi một mình , nhưng anh nhất quyết không chịu , đi thì phải đi cùng . Lần đầu tiên chị thấy anh cương quyết đến thế ! Và cuối cùng mẹ chồng cũng phải nhượng bộ . Vậy là vợ chồng , con cái chị dắt díu nhau ra khơi . Tàu gặp bão , giông tố tưởng như đã nhấn chìm con tàu mấy lượt , vậy mà trời thương , may sao con tàu rách nát vẫn còn tiếp tục chạy . Nhưng mấy hôm sau nữa thì máy hư , hết nước , hết thức ăn và lênh đênh vô định trên biển … môi nứt nẻ , rớm máu, sức tàn lực kiệt . Mấy lần chị hôn mê tưởng chừng như không bao giờ tỉnh lại . Trong cơn mộng mị , chị thấy mình về lại ngày mới lớn , vui tươi nhí nhảnh bên anh , những ngày lãng mạn ,tươi đẹp , nhuộm xanh cả bầu trời . Hình như giấc mơ đã giúp chị thêm chút sức lực . Và trời thương , chị đã thấy mình mở mắt , để thấy đứa con gái bé bỏng ngủ vùi trong lòng mình và đứa con trong bụng có lúc quẫy đạp .
Có lẽ nhờ đó mà ý chí phải sống trong chị trỗi dậy mạnh mẽ , nhưng tới lúc gặp được tàu cứu thì chị một lần nữa chìm sâu vào hôn mê ! Không biết bao lâu , khi chị tỉnh dậy đã thấy mình nằm trong bệnh xá xa lạ , tâm trí hoang mang , mơ hồ …! Qua người y tá bản xứ , chị được biết đây là hòn đảo thuộc Mã Lai . Biết mình đã tới được bến bờ tự do nhưng vì quá yếu , chị lại hôn mê . Trước khi ngất , không hiểu sao trong tiềm thức , như một lời trăn trối , chị rút cái địa chỉ & số Điện thoại của anh được giấu trong lai áo , đưa cho cô y tá , nhờ đánh giùm điện tín cho người này , nói chị đang gặp nạn ở đây .
Qua hôm sau , trong cơn thập tử nhất sinh , cái thai có triệu chứng sinh non , mà chị lại quá yếu . Bác sĩ đang lo lắng , không biết có cứu nổi cả mẹ lẫn con không ? Trong cơn mê , chị nghe thấy tiếng khóc của chồng và cảm giác hơi ấm bàn tay nhỏ nhắn của đứa con gái bé bỏng vuốt ve trên mặt , chị như được hồi sinh lần nữa . Bác sĩ quyết định mổ .
Như một cơn gió lốc , anh của những ngày tháng xưa cũ , vẫn cao gầy , dáng thư sinh , tuy khuôn mặt bơ phờ , mái tóc nâu rối bời và cặp mắt xanh lơ , giờ đã không còn sáng như hai vì sao nữa , bởi từ lúc anh nhận được điện tín, liên lạc được với Liên Hợp Quốc để xác minh , anh đã không hề chợp mắt …
Chuyến bay tốc hành đã đưa anh tới hòn đảo nhỏ này , và giờ đây đang đứng nhìn chị bé bỏng , hôn mê trên giường bệnh . Trước khi đi qua đây , trong đầu anh không hề nghĩ tới chị đã có chồng , con và một baby nữa sắp chào đời .
Đứng đó nhìn chị , anh đau đớn , xót xa , đầu óc anh tràn đầy xúc động , Anh tự véo tay mình mấy lần , để biết chắc đây không phải là một giấc mơ. Khoảnh khắc đau đớn , ngỡ ngàng rồi cũng qua đi . Anh thảo luận với bác sĩ , nói chuyện với chồng chị , giới thiệu sơ sơ về mình và anh khẩn cấp liên lạc với bệnh viện lớn nhờ giúp đỡ . Ngay ngày hôm đó , chị được trực thăng chuyển về bệnh viện lớn ở thủ đô Kualalumpur , với sự chăm sóc đầy đủ nhất . Chị được cứu sống , cả mẹ lẫn con . Biết chị đã vượt qua cơn nguy hiểm , lòng anh rộn rã . Đứng bên ngoài phòng nhìn, nhìn đứa bé gái sinh non , lớn hơn con mèo một chút ngọ nguậy trong lồng kính , cảm giác tràn ngập thương như chính con mình . Anh ngỏ lời với chồng chị , xin làm cha đỡ đầu của đứa bé . Trước hôm về lại Mỹ , anh và chị lần đầu nói chuyện trực tiếp với nhau ở bệnh viện , khi chị đã tỉnh táo . Bên giường bệnh , nhìn chị ốm xanh như tàu lá ! Ánh mắt yêu thương , như ngàn lời muốn nói , nhưng anh biết , có rất nhiều điều cần phải giữ lại cho riêng mình .
Chị nhìn anh cảm kích , biết ơn . Những thứ này có ý nghĩa gì với những điều chị đang chất chứa trong lòng . Cũng như anh , chị biết mình không thể nói hay biểu lộ ra những gì mình đang nghĩ , tự nhủ lòng … phải quên thôi ! Ánh mắt nhìn nhau thăm thẳm như biển sâu, chị chỉ nói được một câu : “Em xin lỗi “!
“ Có những niềm riêng một đời giấu kín
Như rong rêu chìm đắm trong biển khơi
Có những niềm riêng một đời câm nín
Nên khi xuôi tay còn chút ngậm ngùi …”
Trước lúc chia tay , anh trao riêng cho chồng chị một phong bì , bên trong có một sấp tiền mặt . Chồng chị tự ái , không nhận , nhưng anh cứ bắt chồng chị phải nhận , anh nói :” Cứ coi như tôi cho mượn , sau này anh có thì trả lại tôi …”! Bốn tháng sau , giữa năm 1980 gia đình chị chính thức định cư ở San Jose, California, Mỹ .
Thời gian qua nhanh , hai năm sau đó chị có thêm một thằng cu tí ra đời . Nhìn ba đứa con mỗi ngày mỗi lớn , giờ chị đã bình thản hơn , sóng gió trong lòng đã dịu đi nhiều . Mỗi năm đến ngày Lễ lớn hay sinh nhật của các con chị , anh đều gửi thiệp , gửi quà . Nhưng hai bên không ai nói chuyện trực tiếp , chị thấy vậy cũng tốt , thôi thì cố coi như “ chỉ là giấc mơ qua “! Hai vợ chồng chị đều đi học lại , có nghề nghiệp ổn định và đời sống kinh tế vững vàng . Món tiền 3 ngàn USD năm xưa , chồng chị đã gửi lại cho anh sau 3 năm tới Mỹ. Nợ tiền thì trả được … nhưng nợ Tình thì sao ? Có một điều làm chị bứt rứt là anh không lấy vợ , ngoài 40 tuổi mà anh vẫn độc thân . Công việc của anh đi nhiều , và anh luôn lấy công việc bận rộn làm vui …
Mẹ anh thỉnh thoảng nói chuyện với chị qua Điện thoại , bà thương chị như con dù chưa một lần gặp mặt , tuy nhiên bà biết chị qua tấm ảnh trong phòng anh . Những gì bà nói thường làm chị buốt nhói trái tim , làm chị cảm động đến khóc được , và qua bà , chị biết được toàn bộ cuộc sống của anh . Hai người đàn bà , cùng nắm giữ trái tim một người đàn ông . Chị gọi bà bằng Mẹ , các con chị gọi bà là bà ngoại . Một chiều mùa Thu , bà gọi cho chị biết anh đang ốm nặng . Chị muốn đi thăm lắm nhưng vì công việc làm không thể nghỉ , hơn nữa có những lí do tế nhị mà chị không đi được . Chị chỉ có thể gửi gửi một bình hoa thật đẹp vào bệnh viện cho anh .
Hôm biết anh xuất viện , chị gọi điện thăm nhưng anh còn yếu , chưa nói chuyện được . Mẹ anh vừa khóc vừa nói với chị : “ Con biết không ? Họ hàng , bạn bè , đồng nghiệp gửi hoa tới bệnh viện rất nhiều nhưng đến lúc xuất viện , ngồi trên xe lăn , còn rất yếu mà nó chỉ ôm khư khư bình hoa của con , đem về nhà để trên đầu giường …” Chị khóc !
Hai năm sau , đang giờ làm việc , mẹ anh gọi báo tin anh hấp hối , cuộc giải phẫu Tim không thành công . Chị bỏ hết công việc lên thăm anh lần cuối , đi cùng chị có con bé giữa , đứa bé năm nào nhờ anh mà được sống sót …Nhìn anh thoi thóp trên giường bệnh , chị khóc như chưa bao giờ được khóc , lần đầu và cũng là lần cuối , chị khóc thương cho tình yêu của anh và chị . Khóc thương cho người đàn ông đã yêu chị bằng tình yêu bền bỉ , không bao giờ ngưng nghỉ , chưa hề đòi hỏi ở chị bất cứ một điều gì . Trong giây phút hiếm hoi , tỉnh táo , anh bình thản nhìn chị với ánh mắt ngập tràn yêu thương …Anh cười , bảo chị đừng buồn , đời sống có sinh , có tử . Anh cảm ơn Thượng đế , đã cho anh gặp và yêu chị . Chị đau đớn nghẹn lời , cũng chỉ nói được một câu :” Em xin lỗi “ .
Ánh mắt xanh lơ , cái nhìn đằm thắm , anh thu hết tàn lực nói với chị rằng :” Nếu có kiếp sau , xin em đừng nói câu xin lỗi !”
Rồi anh trút hơi thở cuối cùng .
Đám tang anh vào một ngày đầu Đông … buồn . Anh ra đi ở tuổi 46.
Chị trở về cuộc sống thường ngày ! Thế gian này từ nay thiếu vắng anh nhưng trong lòng chị , anh vẫn có một chỗ đặc biệt dành riêng .
Ba tháng sau đám tang anh, chị nhận được thư mời của Luật sư , sẵn dịp chị bay lên thăm mẹ anh , bà đã già đi nhiều sau cái chết của con trai .
Hôm mở di chúc của anh , chị mới biết cả ba đứa con chị đều có phần trong tài sản của anh để lại . Số tiền không nhiều nhưng dư đủ cho ba đứa vào học trong những trường Đại học danh tiếng nhất .
Chiều tàn , bên ngôi mộ anh , chị lặng lẽ thầm thì những lời thương yêu mà lúc anh còn sống chị đã không thể nói . Theo gió , chị gửi tới anh ,những lời của một tình yêu , mà chị biết kiếp này và … cho tới kiếp sau chị vẫn ao ước được có , cũng như được gặp lại.
Văng vẳng bên tai chị nghe có tiếng anh thì thầm :” NẾU CÓ KIẾP SAU , XIN EM ĐỪNG NÓI CÂU XIN LỖI !”
“Tóc mai sợi ngắn , sợi dài
Lấy nhau chẳng đặng thương hoài ngàn năm “

Thay cho lời tựa : Câu chuyện quá cảm kích xin phép tác giả cho phép được trích đăng 

Friday, February 21, 2025

Thơ Bùi Giáng


Thơ Bùi Giáng

 Ta cứ tưởng Trần Gian là cõi thật

Thế cho nên tất bật đến bây giờ !
Ta cứ ngỡ xuống Trần chỉ một chốc
Nào ngờ đâu ở mãi đến hôm nay !
Bạn thân ơi! Có bao giờ bạn nghĩ
Cuộc đời này chỉ tạm bợ mà thôi
Anh và tôi giàu sang hay nghèo khổ
Khi trở về cát bụi cũng trắng tay
Cuộc đời ta phù du như cát bụi
Sống hôm nay và đâu biết ngày mai ?
Dù đời ta có dài hay ngắn ngủi
Rồi cũng về với cát bụi mà thôi
Thì người ơi! Xin đừng ganh đừng ghét
Ðừng hận thù tranh chấp với một ai
Hãy vui sống với tháng ngày ta có
Giữ cho nhau những giây phút tươi vui
Khi ra đi cũng không còn nuối tiếc
Vì đời ta đã sống trọn kiếp người
Với tất cả tấm lòng thành thương mến
Ðến mọi người xa lạ cũng như quen
Ta là cát ta sẽ về với bụi
Trả trần gian những cay đắng muộn phiền
Hồn ta sẽ về nơi cao xanh ấy
Không còn buồn lo lắng chốn trần ai!
- Bùi Giáng

Sunday, January 26, 2025

Đừng Tưởng Bùi Giáng

ĐỪNG TƯỞNG

"Đừng tưởng cứ núi là cao.
Cứ sông là chảy, cứ ao là tù.
Đừng tưởng cứ dưới là ngu.
Cứ trên là sáng, cứ tu là hiền.
Đừng tưởng cứ đẹp là tiên.
Cứ nhiều là được, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng không nói là câm.
Không nghe là điếc, không trông là mù.
Đừng tưởng cứ trọc là sư.
Cứ vâng là chịu, cứ ừ là ngoan.
Đừng tưởng có của đã sang.
Cứ im lặng tưởng là vàng nguyên cây.
Đừng tưởng cứ uống là say.
Cứ chân là bước, cứ tay là sờ.
Đừng tưởng cứ đợi là chờ.
Cứ âm là nhạc, cứ thơ là vần.
Đừng tưởng cứ mới là tân.
Cứ hứa là chắc, cứ ân là tình.
Đừng tưởng cứ thấp là khinh.
Cứ chùa là tĩnh, cứ đình là to.
Đừng tưởng cứ quyết là nên.
Cứ mạnh là thắng, cứ mềm là thua.
Đừng tưởng cứ lớn là khôn,
Cứ bé là dại, cứ hôn… là chồng !
Đừng tưởng giàu hết cô đơn.
Cao sang hết ốm, tham gian hết nghèo.
Đừng tưởng cứ gió là mưa.
Bao nhiêu khô khát trong trưa nắng hè.
Đừng tưởng cứ hạ là ve,
Sân trường vắng quá ai khe khẽ buồn…
Đừng tưởng thu lá sẽ tuôn,
Bao nhiêu khao khát con đường tình yêu…
Đừng tưởng cứ thích là yêu,
Nhiều khi nhầm tưởng bao điều chẳng hay…
Đừng tưởng trong lưỡi có đường,
Nói lời ngon ngọt mười phương chết người.
Đừng tưởng cứ chọc là cười,
Nhiều khi nói móc biết cười làm sao ?
Đừng tưởng khó nhọc gian lao,
Vượt qua thử thách tự hào lắm thay !
Đừng tưởng cứ giỏi là hay,
Nhiều khi thất bại đắng cay muôn phần.
Đừng tưởng nắng gió êm đềm,
Là đời tươi sáng hóa ra đường cùng.
Đừng tưởng góp sức là chung,
chỉ là lợi dụng lòng tin của người.
Đừng tưởng cứ tiến là lên,
Cứ lui là xuống, cứ yên là nằm.
Đừng tưởng rằm sẽ có trăng,
Trời giăng mây xám mà lên đỉnh đầu.
Đừng tưởng cứ khóc là sầu,
Nhiều khi nhỏ lệ mà vui trong lòng.
Đừng tưởng cứ nghèo là hèn,
Cứ sang là trọng, cứ tiền là xong.
Đừng tưởng quan chức là rồng,
Đừng tưởng dân chúng là không biết gì.
Đời người lúc thịnh, lúc suy,
Lúc khỏe, lúc yếu, lúc đi, lúc dừng.
Bên nhau chua ngọt đã từng,
Gừng cay, muối mặn, xin đừng quên nhau.
Ở đời nhân nghĩa làm đầu,
Thủy chung sau trước, tình sâu, nghĩa bền.
Ai ơi, nhớ lấy đừng quên…"
  Bùi Giáng







Thursday, January 16, 2025

Nhạc Sỉ Trường Sa



“YÊU EM GIỮA ĐỜI QUÊN LÃNG”

Trường Sa tên thật là Nguyễn Thìn, sinh năm 1940 tại Ninh Bình, năm 1954 di cư vào Nam, thời niên thiếu ở nhiều nơi như Nha Trang rồi Thủ Đức (Sài gòn) vì phải theo cha là một quân nhân thuyên chuyển nhiều lần. Năm 1962, ông gia nhập Hải Quân, tốt nghiệp khóa 12 sĩ quan Hải quân, làm hạm phó tàu tuần duyên Trường Sa (bút danh Trường Sa khi viết nhạc được chọn vào thời gian này) rồi phục vụ trong Giang đoàn 63 Tuần thám. Sau những cuộc hành quân đầy hiểm nguy, ông dành thời gian cho niềm đam mê âm nhạc, viết các ca khúc thời chiến như “Một lần xa bến”, “Hành trang giã từ”, “Chuyện người đan áo”, nhưng sau đó, với sự khích lệ của nhạc sĩ Từ Công Phụng, bắt đầu chuyển sang viết tình ca.
Năm 1967, từ một cuộc tình tan vỡ, ông viết những nốt nhạc đầu tiên của ca khúc “Rồi mai tôi đưa em” mà phải 2 năm sau mới hoàn tất. 2 bản tình ca ra mắt 2 năm sau đó là “Xin còn gọi tên nhau” (1969) và “Mùa thu trong mưa” viết chỉ trong vài tiếng đồng hồ khi cảm xúc đang dâng trào.
Nhạc sĩ Ngô Thụy Miên thuở ấy đang rất nổi tiếng với những bản tình ca, đã có cảm nhận khi nghe những nhạc phẩm của Trường Sa như “Rồi mai tôi đưa em”, “Xin còn gọi tên nhau” và “Mùa thu trong mưa” là “yêu ngay cái nét nhạc dịu dàng như dòng suối nhỏ lượn quanh khu vườn yên tĩnh, rồi bất chợt trỗi lên như cơn bão nổi, ngập tràn đau thương”.
Đến thập niên 1970, ông tiếp tục viết các ca khúc như “Một mai em đi” (1973) khi đóng quân tại căn cứ Trà Cú trên sông Vàm Cỏ Đông, “Ru em một đời”, “Như hoa rồi tàn” và “Sầu biển”, ca khúc được phổ biến rộng rãi trong hàng ngũ Hải quân để gom góp tiền ủy lạo gia đình Trung tá Ngụy Văn Thà tử trận trong trận chiến Hoàng Sa năm 1974.
Ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông lên một chiến hạm đến đảo Guam, nhưng không tìm thấy gia đình nên xin Cao Uỷ tỵ nạn Liên Hiệp Quốc can thiệp cho trở về Việt Nam bằng tàu. Về tới Việt Nam, ông phải học tập cải tạo tại Phú Khánh và Nghệ Tĩnh đến năm 1984. Năm 1986, khi được trả tự do, ông vượt biên và bị bắt giam 2 năm. Đến năm 1989, ông vượt biển lần thứ hai thành công, tỵ nạn ở trại Pulau Bidong, Malaysia rồi sang định cư ở Canada. Trên miền đất tự do, Trường Sa viết nhạc trở lại sau 15 năm bị gián đoạn. Ngoài thời gian làm việc tại một công ty xe hơi, ông sinh hoạt thường xuyên trong Hội Hải quân Việt Nam Cộng hòa tại Canada và tham gia sinh hoạt văn nghệ.
Trường Sa đã chia sẻ về công việc sáng tác ca khúc và những nhạc phẩm đã ra mắt trong gần 40 năm qua: “Là một sĩ quan Hải quân Quân lực Việt Nam Cộng hòa, trước bối cảnh lịch sử, tôi đã viết một số ca khúc đại chúng trong thời gian 1965-1966 như “Hành trang giã từ”, “Chuyện người đan áo”, “Một lần xa bến”, “Trên đường về thăm em”... Sau năm 1966, tôi chuyển hướng, chỉ viết tình ca. Hầu hết các ca khúc đều buồn, từ chuyện tình cảm mất mát. Từ năm 1967-1969, những ca khúc tôi viết tại Sàigòn và được Lệ Thu thu thanh đầu tiên là “Xin còn gọi tên nhau”, “Rồi mai tôi đưa em” và “Mùa thu trong mưa”. Nhạc phẩm “Một mai em đi” tôi sáng tác năm 1973, khi đơn vị của tôi đóng quân ở đồn Trà Cú, cũng do Lệ Thu thu thanh đầu tiên. Ngoài ra, nhiều nhạc phẩm khác của tôi cũng được những ca sĩ khác trình bày như “Tàn tạ” (Thái Thanh), "Ru em một đời" (Sĩ Phú). Sau năm 1975, tôi sáng tác những ca khúc như "Xin yêu nhau dù mai nữa", "Mùa xuân sao chưa về hỡi em?", "Những mùa thu qua trên cuộc tình tôi", "Khi chuyện tình đã cuối", "Bản tình ca cho kỷ niệm", "Paris em về", "Một thoáng mơ phai", "Sài gòn ơi tôi còn em đó", "Thu vẫn qua đây mình ta" và "Hạnh phúc hôm nay". Viết một ca khúc, trước hết mình đã phần nào là một người làm thơ và mình cũng phải có một giác quan rất bén nhạy mới có thể tạo ra được những chuỗi âm thanh hài hòa để người nghe cùng rung động với tâm tư của mình”.
“Yêu em giữa đời quên lãng” là một ca khúc buồn về một tình yêu đã đến vào một mùa xuân có “trời xanh cỏ biếc”, ngày rực rỡ với nắng hôn trên tóc người yêu và bàn tay khẽ nắm của nàng đã mang lại khoảnh khắc bình yên không thể nào quên. Nhưng mùa xuân ấy rồi cũng qua, mây đã bay về cuối trời, anh thẫn thờ đi tìm lại màu hoa cài trên tóc của người yêu và màu nắng rực rỡ của một ngày đã thật xa nàng đã cho anh biết thế nào là hạnh phúc tột cùng trong tình yêu. Tình yêu anh mãi đi tìm suốt một đời đã đến, nhưng những ngày hạnh phúc thật ngắn ngủi, chỉ còn lại niềm đau vì xa cách, nhưng anh đã biết tình yêu say đắm vẫn luôn là thế, sẽ còn mãi giữa đời lãng quên.
YÊU EM GIỮA ĐỜI QUÊN LÃNG
Mùa xuân nơi đâu, trời xanh cỏ biếc
Tình có là nắng hôn tóc em mềm
Bàn tay nhung êm có níu tình tôi
Qua bến yêu đương mấy thuở bên người.
Mùa xuân nơi đâu người ơi tìm mãi
Màu hoa nào thắm trên tóc em cài.
Dìu hồn tôi say trong giấc hồn nhiên
Theo bước chân em cuối trời lãng quên
Quên sao nắng vẫn ghen màu mắt,
Và môi ấy vẫn quen hờn dỗi
Xin một lần tình chia ngọt bùi
Cho một lần hạnh phúc rã rời.
Tình vui đời có bên nhau
Tình đau đời cách chia nhau
Xin em năm ngón dìu bước qua mau
Mùa xuân nơi đâu hỏi em còn nhớ
Ngày tháng nào đó ta đã yêu người
Nụ hồng môi xưa thôi cũng tàn dư
Mây cũng mây bay xuôi về cuối trời.
Người cho tôi biết tình yêu là thế
Là không hẹn đến nhưng mãi đi tìm.
Là bài thơ yêu say đắm triền miên
Nên mãi yêu em giữa đời lãng quên.
Ảnh: Nhạc sĩ Trường Sa, với ca sĩ Thùy Dương vả ca sĩ Diệu Hiền
TRƯỜNG SA






Wednesday, September 25, 2024

Nha Trang Cát trắng

 

Nha Trang Niệm Nhớ 1972

Nha Trang biển xanh hàng liễu xanh!
Quân trường gió lay lá bàng bay!
Tinh mơ, tôi và mặt trời thức dậy
Nắng vẫn còn ngái ngủ lẫn trong sương
Nắng chưa nhìn đỉnh tóc
Tôi đã đi đã tới
giảng đường,
thao diễn trường,
cầu đá,
phạn xá ...
Giày saut lối sỏi lao xao
Thoáng quen như tiếng sóng trào biển khơi
Hai năm kinh sử quên ngày tháng
Xuân đến chào xuân cứ chửi thề:
“Ngày mai ăn Tết bằng chi nhỉ?”
- Ăn tết bằng hai cánh cửa quan!
Nha Trang tôi có người yêu nhỏ
Dối mẹ hẹn nhau lễ Chúa Nhật
Khi lễ em đứng bục ca hát
Liên láo tìm tôi dãy ghế ngồi
Tan lễ em níu tay hờn dỗi:
" Áo anh trắng quá nhìn chả ra!"
Tình em ngày đó không mặc cả
Còn tôi, ác quỷ cạnh thiên thần…
Tôi sợ yêu tôi đời em lận đận
V ì truông ải chẳng nhân từ, chẳng xót xa…
Ngày Tốt Nghiệp tháng 9/73
Ra trường theo biển… thôi đành quên em!

Ng Hoa Nguyễn

Thursday, July 4, 2024

Bài Thơ Lên 6







LÊN SÁU
Sách quốc ngữ - Chữ nước ta.
Con cái nhà - Đều phải học.
Miệng thì đọc - Tai thì nghe.
Chớ ngủ nhè - Chớ láu táu.
Con lên sáu - Đang vỡ lòng,
Học cho thông - Thầy khỏi mắng.
Trong trời đất - Nhất là người.
Ở trên đời - Hơn giống vật.
Con bé thật - Chưa biết gì
Còn ngu si - Phải dạy bảo
Cho biết đạo - Mới nên thân
Sau lớn dần - Con sẽ khá.
Ai đẻ ta? - Cha cùng mẹ.
Bồng lại bế - Thương và yêu.
Ơn nhường bao - Con phải ngẫm:
Áo mặc ấm - Mẹ may cho.
Cơm ăn no - Cha kiếm hộ.
Cha mẹ đó - Là hai thân.
Hai thân là - Là thân nhất,
Trong trời đất - Không ai hơn.
Con biết ơn - Nên phải hiếu.
Nghĩa chữ hiếu - Đạo làm con,
Con còn non - Nên học trước.
Đi một bước - Nhớ hai thân.
Con còn nhỏ - Có mẹ cha,
Lúc vào ra - Được vui vẻ.
Con còn bé - Mẹ hay chiều
Thấy mẹ yêu - Chớ làm nũng.
Đã đi học - Phải cho ngoan,
Hay quấy càn - Là chẳng hiếu.
Con còn bé - Mẹ hay lo,
Ăn muốn cho - Lại sợ độc.
Con ốm nhọc - Mẹ lo thương,
Tìm thuốc thang - Che nắng gió.
Con nghĩ đó - Sao cho ngoan,
Hay ăn càn - Là chẳng hiếu.
Anh em ruột - Một mẹ cha,
Mẹ đẻ ra - Trước sau đó.
Cùng máu mủ - Như tay chân,
Nên yêu thân - Chớ ganh tị.
Em coi chị - Cũng như anh,
Trước là tình - Sau có lễ.
Người trong họ - Tổ sinh ra,
Ông đến cha - Bác cùng chú.
Họ nội đó - Là tông chi,
Cậu và dì - Về họ mẹ.
Con còn bé - Nên dạy qua,
Còn họ xa - Sau mới biết.
Người trong họ - Có bề trên,
Lạ hay quen - Đều phải kính.
Có khách đến - Không được đùa,
Ai cho quà - Đừng lấy vội.
Ông bà gọi - Phải dạ thưa.
Phàm người nhà - Không được hỗn.
Con bé dại - Mải vui chơi.
Muốn ra người - Phải chăm học.
Miệng đang đọc - Đừng trông ngang.
Học dở dang - Đừng có chán.
Học có bạn - Con dễ hay.
Mến trọng thầy - Học chóng biết.
Dậy con biết - Phép vệ sinh:
Ăn quả xanh - Khó tiêu hoá.
Uống nước lã - Có nhiều sâu.
Áo mặc lâu - Sinh ghẻ lở.
Mặt không rửa - Sinh u mê.
Đang mùa hè - Càng phải giữ.
Các giống vật - Thật là nhiều:
Như con hươu - Ở rừng cỏ.
Như con chó - Nuôi giữ nhà.
Con ba ba - Loài máu lạnh.
Loài có cánh - Như chim câu.
Còn loài sâu - Như bọ róm.
Cây và cỏ - Có khác loài,
Trông bề ngoài - Cũng dễ biết.
Như cây mít - Có nhiều cành.
Lúa, cỏ gianh - Có từng đốt,
Còn trong ruột - Lại khác nhau.
Vài năm sau - Con biết kỹ.
Đá bờ sông - Không sống chết,
Không có biết - Không có ăn,
Không người lăn - Cứ nằm đấy.
Như đá cuội - Như đá xanh,
Như mảnh sành - Như đất thó,
Các vật đó - Theo loài kim.
Các loài kim - Tìm ở đất.
Nhất là sắt - Nhì là đồng,
Làm đồ dùng - Khắp trong nước.
Như vàng bạc - Càng quý hơn,
Đúc làm tiền - Để mua bán,
Ai có vạn - Là người giàu.
Vốn xưa là - Nhà Hồng Lạc,
Nay tên nước - Gọi Việt Nam.
Bốn nghìn năm - Ngày mở rộng.
Nam và Bắc - Ấy hai miền,
Tuy khác tên - Đất vẫn một.
Lào, Miên, Việt - Là Đông Dương.
Đầu trị nước - Đức Kinh Dương.
Truyện Hùng Vương - Mười tám chúa.
Qua mấy họ - Quân Tàu sang.
Vua Đinh Hoàng - Khai nghiệp đế.
Trải Đinh, Lý - Đến Trần, Lê,
Nay nước ta - Là nước Việt.
Chữ nước ta - Ta phải học,
Cho trí óc - Ngày mở mang.
Muốn vẻ vang - Phải làm lụng,
Đừng lêu lổng- Mà hư thân.
Nước đang cần - Người tài giỏi,
Cố học hỏi - Để tiến nhanh,
Vừa ích mình - Vừa lợi nước.
Chớ lùi bước - Là kẻ hèn.
——
Thư viện giáo dục WakaEdu - Mang tri thức đi muôn nơi
Facebook: WakaEdu - Thư viện giáo dục 4.0
Tiktok: @wakaeduthuviengiaoduc4.0