Đặc San HQ 21

Đặc San HQ 21
Nha Trang Ngày Về Kỳ 9

Friday, October 10, 2025

2 Chế Độ

 Làm sao chôn 2 chế độ?

Trần Thiện Phi Hùng
Posted by GLN

Tôi 6 năm làm lính, thêm 6 năm làm quan, binh chủng Hải Quân. Xạo là chuyện đương nhiên.

"Tượng nào cao bằng tựơng Trần Hưng Đạo
Lính nào xạo bằng lính Hải Quân"
Xứ VNCH ta, Bộ Binh, Không Quân chỉ có 4 vùng chiến thuật nhưng Hải Quân có vùng 5 Duyên Hải; Phú Quốc, Côn Sơn. Như nhiều chàng lính biển khác, tôi có thừa tài xạo. Xạo như thật. Xạo với gái bán bars, xạo cả với thượng cấp, nhưng không dám xạo với gái nhà lành, vì tôi rất sợ vướng nợ giai nhân rồi dính lưới hôn nhơn.
Đời lính biển đầy những chuyến hải hành dài cả tháng mà có vợ thì xắc suất nuôi con của thiên hạ rất cao.

Thôi thì cứ xạo với mấy em bán bar, mấy cô chịu chơi cho đời vui cái đã rồi tính.
***
Cùng dòng họ Trần Thiện như tôi, có một ông Đại Tướng, 2 ông Đại Tá, mấy chục ông tá, ông uý.
Ông bà nội tôi là loại điền chủ sau khi đã bị chính phủ VNCH mua lại bởi luật người cày có ruộng; vẫn còn 100 mẫu để canh tác và 15 mẫu ruộng hương hỏa. Cha tôi là một triệu phú có đủ thứ, villas, nhà lầu 4 tầng với mấy chục phòng cho Mỹ mướn rồi 6, 7 căn phố.

Tôi thằng con trưởng nam, vậy mà không được ai nuôi cho ăn học. Ngay khi biết mình 18 tuổi, tôi tự nguyện vào lính hải quân dù chưa nhận được lược giải cá nhân.

Làm lính chưa đầy 6 năm tôi mang lon Thượng sĩ, năm chưa tròn 24 tuổi; đi đâu cũng bị quân cảnh xét giấy tờ coi có mang lon giả hay không.
Tôi chỉ mong hết 5 năm để giải ngũ, nhưng rồi chiến cuộc leo thang nên bị lệnh lưu ngũ. Sau đó, tôi đi học làm quan, thăng cấp từ chuẩn úy lên trung úy thì tự động.

Dù làm lính hay làm quan, tật ba gai không bỏ.
Gái đến cầu tàu rủ rê đi chơi thì dù đang gác cũng đem súng giao cho sĩ quan trực và bỏ đi chơi 5 ngày sau mới về; vì đi 6 ngày bị cho là đào ngũ nên chiều ngày thứ 5 là tôi về trình diện và vui vẻ nói lý do là "Tại gái xuống tận cầu tàu rũ đi chơi" và vui vẻ đi tù.

Từ đầu tháng Tư 1975, ngay khi thấy chộn rộn, nhiều người tìm đường ra đi, tôi đã chọn ở lại.
Là sĩ quan hải quân, tôi mà muốn ra đi thì tàu nào cũng đi được hết. Tàu nào cũng có bạn cùng khóa lính hay khóa quan hay cùng đơn vị khi xưa

Hơn nữa, nơi tôi phục vụ là Trường Chiến hạm của Bộ Tư Lệnh Hạm Đội, chuyên huấn luyện tác chiến và thanh tra các chiến hạm của hải quân nên gần như quen biết rất nhiều. Những thường dân mang cả gia đình đứng lớ ngớ trước Hải Quân Công Xưởng muốn vào phía trong để xuống tàu mà không vào được tôi còn dẫn dùm vào.

Tôi xa mẹ từ thuở nhỏ nay chỉ muốn được sống bên mẹ của tôi mà thôi. Tôi tự tin là dù hoàn cảnh nào, mình cũng có thể xoay sở để sống còn.

Chiều 30 tháng Tư, lần đầu tiên tôi đến nhà ba tôi. Đứng trên sân thượng của building 4 tầng trên đường Chi Lăng, nhìn những chiếc T. 54 của Quân Bắc Việt từ bệnh viện ung thư và tòa hành chánh tỉnh Gia Định quẹo qua đường Chi Lăng ngang bót Hàng Keo qua trước nhà ba của tôi để tiến về Dinh Độc Lập.
Tôi rơi nước mắt. "Thế là hết; Tôi thua trận; Tôi bị mất Nước!"

Tôi rời bỏ Biên Hòa về quê mẹ nhưng bị truy tìm nên phải về quê của Ông Ngoại và 15 ngày sau mới trình diện ở Quận Chợ Gạo. Hai tháng sau khi trình diện, tôi được đưa đến tập trung ở Đình xã Tân Lý Tây. Ngôi đình này được cho là linh thiêng vì không bị dấu vết của bom đạn.

Ở đây chúng tôi phải khai lý lịch chừng chục lần trong 2 tháng. Ngay lần khai đầu tiên, tôi hiểu ngay đây là lúc phải xài tài ba xạo. Mấy ông họ hàng Trần Thiện theo phe quốc gia không dính gì đến tôi. Bố mẹ, chú bác anh em nhà tôi đều theo kháng chiến, có cả lô tử sĩ.

Nhiều lúc đang ngủ bị dựng dậy bắt khai lý lịch vì lệnh trên bắt khai lại. Lý lịch của tôi là lý lịch xạo thì làm sao nhớ mà khai cho đúng y như nhau nên phải chép thật nhỏ giấu vào trong bâu áo. Mỗi lần khai là lần lấy ra xào lại.

Sau đợt lý lịch, một ngày Thứ Bảy gần tối, cả bọn trình diện được lùa lên một đoàn xe GMC và xe hàng loại chở heo đến. Lệnh chỉ ngắn gọn, "chuyển trại", không cho biết sẽ đi đâu. Xe chạy về hướng Cai Lậy, một bên lộ là con kinh. Một tên trên xe nói tới Mỹ Phước Tây rồi.
Mỹ Phước Tây cái tên nghe quen quá. Tôi cố moi trí nhớ. Phải rồi, đây vùng nằm giữa Đồng Tháp Mười, trên đường đi Mộc Hóa.
Qua Mỹ Phước Tây chừng 2 hay 3 km, xe dừng lại. Cán bộ coi tù cho biết đây là Trại Cải tạo Vườn Đào. Tên Vườn Đào là vì ngày xưa có người lập vườn trồng đào lộn hột nhưng rồi bỏ hoang. Trên chục dẫy nhà lá dài hàng mấy chục thước. Vào trại, tôi được một số trại viên cũ cho biết họ bị bắt trước ngày 30 tháng 4 và đưa về đây, lùa đi đốn cây làm nhà cho trại. Chúng tôi được chia ra 25 người vô một tổ. Trải nylon quấn mền ngủ qua đêm vì quá tối không thể tìm cách giăng mùng.

Trại cải tạo Vườn Đào đúng là cái trại tù không giống bất cứ nơi đâu. Trong trại không ai nhìn ra tôi.
Tôi nhận ra một Thiếu úy ngày xưa ở quân trường Nha Trang tôi làm Đại đội trưởng của hắn nhưng nay nhìn tôi hắn ta ngó lơ. Thế cũng là tốt.
Thời mới đến trại Vườn Đào, tôi nhờ được Mẹ lên thăm vừa tiếp tế vừa dúi tiền cho, nên ăn no xài bảnh. Nhưng những ngày tù “huy hoàng” cũng tới lúc kết thúc. Đổi tiền. 22 tây tháng Chín, 1975, tôi còn trên 100 ngàn, phải chia cho bạn bè đổi dùm. Cán bộ đưa cho mấy đồng còn bao nhiêu giữ lại. Vậy là hết thời vung vít.
Trong trại, ngoài màn lao động còn đủ kiểu họp hành, bắt viết đủ thứ “tự khai” rồi “thu hoạch.” Anh nào bị gọi lên “làm việc” là có chuyện vì bị báo cáo gì đó. Tự biết mình khai lý lịch xạo, muốn yên tôi đóng luôn vai dữ, sẵn sàng đập lộn.
Hăm he và thừa cơ đánh vào chỗ yếu của thiên hạ là cách sống còn mà trường đời dạy tôi. Nhược điểm là thằng nào cũng muốn được thả về sớm. Tôi thì tuyên bố tao không cần ra sớm. Tiền bạc mẹ và em của tao đủ sống nhiều năm nữa; Tao không cần ra sớm vì tao biết không thể nào ra sớm; Thằng nào cà chớn tao đập để cùng nhau ở trại tù muôn năm cho vui.
Đòn phép này có vẻ hữu hiệu, vậy mà yên được ít lâu, rồi cũng có ngày tôi bị gọi đi trình diện “làm việc”. Chắc là bị báo cáo gì đây. Trước khi đi, tôi còn hăm he:
- Tao mà bị gì thì thằng nào báo cáo nên trốn đi chứ không thì đừng trách tao nặng tay.

Người chờ “làm việc” với tôi không phải tay cán bộ coi an ninh trại mà là một Trung Úy cán bộ người Miền Nam nằm vùng Đồng Tháp Mười. Ngay khi gặp mặt, anh ta tự xưng là “chính trị viên” và trấn an tôi ngay:
- Tôi gọi anh lên chỉ để nói chuyện chơi cho biết thôi, không có gì quan trọng.
Sau đó, tôi còn được mời ngồi, rồi chính viên trung uý cán bộ này đưa thuốc lá của anh ta ra mời hút.
- Tôi vừa đọc xong mấy bài thu hoạch của anh. Anh là văn sĩ à?
À thì ra anh ta thích đọc “văn xạo" của tôi. Trong tự khai rồi thu hoạch của tôi, mẹ tôi từng là cán bộ huyện Giồng Trơm tỉnh Bến Tre từ thời Thanh Niên Tiền Phong chống Pháp và cha tôi thì thời đầu kháng chiến từng là đồng chí của tướng Trần văn Trà. (Thực sự thì Ba tôi có một thời tham gia kháng chiến, biết Trần văn Trà trước khi ông rời khỏi chiến khu về thành) Chuyện trò lan man, anh ta còn hỏi làm sao bài tôi viết đề cập tới nhiều người chính anh ta cũng chưa biết.
Sau hơn tiếng đồng hồ được mời trà mời thuốc, trước khi ra về, viên Trung Uý còn bảo tôi cứ về trại an tâm tin tưởng cách mạng luôn có tình có lý.
Được thả về trại bình an, bạn tù vây quanh thăm hỏi việc gì vậy, tôi trả lời:
- Trung Úy Chính Trị Viên (thay vì nói là cán bộ) kêu tao lên hút thuốc nói chuyện chơi và khen bài viết của tao có thể xuất bản thành sách cải tạo!
Tù cải tạo được cán bộ gọi lên nói chuyện chơi mà không có gì hết thì đúng là “đáng ngờ." Sau đó tôi được thoải mái dễ sống, không tên nào dám báo cáo gì hết.
Một hôm, vừa cơm trưa xong tôi bị kêu lên gặp cán bộ. Vẫn viên trung uý chính trị viên lần trước, nhưng lần này anh ta không ngồi văn phòng mà đứng sẵn trên bậc thềm khu cơ quan đón tôi. Sau màn chào hỏi, anh ta vui vẻ dẫn tôi lại văn phòng thuộc khu của trưởng trại, bảo tôi chờ phía ngoài.

Anh ta vào phòng một lát rồi đi ra, bảo tôi “Hôm nay anh sẽ làm việc với đồng chí bí thư, tôi sẽ gặp anh sau.“ Nói xong, viên trung uý ra dấu cho tôi đi tới phía văn phòng cửa mở sẵn rồi bỏ đi. Tôi đứng lại tần ngần bên cửa, đang tự hỏi không hiểu chuyện gì thì từ trong phòng, một giọng nữ miền nam vang ra:
- Anh vô đi.
Giọng nói có vẻ lạ. Tôi bước vào phòng. Không thấy ai. Bàn làm việc ghế ngồi bỏ trống. Vẫn cái giọng nữ ấy vang lên phía sau tôi.
- Anh ngó lui coi. Tôi ở đây.
Giọng nói vang lên ngay bên cửa, nơi tôi vừa bước qua. Không phải khăn rằn. Cũng không bà ba đen. Một cô mặc áo sơ mi trắng ngắn tay bó sát chưa quá ba mươi tuổi đứng khoanh tay bên cửa. Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi:
- Anh không nhớ tôi đâu nhưng tôi biết anh. Tôi biết anh đánh lộn trong trại. Tôi biết anh khai lý lịch xạo.
A, phút nguy hiểm đã tới. Thì ra cái người mà viên trung uý gọi là “đồng chí bí thư” là cô này. Phải coi cô ta là thứ người gì rồi mới liệu đường mà thoát hiểm. Ai đây? Động nào, bars nào. Có phải mấy cô tôi từng gặp ở làng Cam Ranh hay ở bến bờ nào đây?
- Anh đang cố nhớ mà không thể nhớ ra. Tôi không ở những nơi mà anh đang nghĩ đâu. Anh cứ nhìn tôi coi có nhớ gì không?
Cô ta vẫn đứng yên bên cửa, vẫn khoanh tay nhìn tôi và như đọc được ý nghĩ trong đầu tôi. Có vẻ thấy tôi giống như con nai vàng ngơ ngác giữa trời mùa đông, cô ta nhắc lại điều vừa nói:
- Anh đừng cố tìm tôi trong những chỗ anh thường lui tới. Tôi không phải loại đó. Thong thả, tôi sẽ nhắc cho anh nhớ. Chúng ta chỉ gặp nhau một lần.
Biết tôi không thể nhớ ra gì hơn. Cô ta tiếp tục:
- Có lẽ chưa đầy 30 phút. Nhưng tôi biết về anh. Tôi đã coi tất cả hồ sơ của anh. Bao năm qua, tôi vẫn quyết phải tìm cho ra anh. Đầu tháng Năm, sau khi ổn định tình hình; tôi lên Sài Gòn vào Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Giấy tờ hồ sơ của hải quân còn đầy đủ cả. Một người của chúng tôi nằm vùng ở phòng tổng quản trị đưa cho tôi danh sách những người trình diện; còn anh ta thì tìm giúp tôi danh sách các quân nhân hải quân trước 75. Có 3 người trùng tên anh, tất cả đều là sĩ quan. Một Trung tá là người Bắc di cư; một Trung úy người Nam và một thiếu úy người miền Trung. Tôi biết anh người Nam. Trong danh sách sĩ quan hải quân trình diện, tôi tìm thấy tên anh, một Trung úy người Nam, địa chỉ Tân Vạn Biên Hòa. Tôi lên ngay Biên Hòa thì công an xã cho biết anh bỏ cây xăng trốn đi đâu không biết. Anh đâu có trốn khỏi tay tôi.
À, đúng là một tay nguy hiểm. Không hiểu mình gây thù chuốc oán gì mà bị săn lùng tới mức này. Chắc phải giả ngây giả dại mới qua khỏi ải này, tôi nghĩ. Cô ta nói tiếp:
- Tôi biết anh đã trình diện. Sau khi có lệnh tập trung cải tạo tôi tìm hầu hết các trại cải tạo miền Tây và đến Mỹ Tho thì thấy tên anh; Lý lịch anh khai ở trại này toàn là thứ ba xạo, đúng chưa? Con trai độc nhất trong nhà như anh thì đào đâu ra mà có anh ruột là Thương Uý tập kết tử trận ở Cà Mau. Anh muốn tôi kể thêm nữa không?
- Cô... Cán bộ. Cô...
Thấy “con mồi” đứng lơ ngơ chịu trận, cô ta có vẻ hài lòng, thong thả rời chỗ đứng về lại bàn rồi bảo tôi:
-Trong trại này anh còn dám đánh lộn rồi còn tuyên bố chẳng cần được thả sớm. Anh “chì” lắm mà, sao nay ú ớ vậy. Thôi, ngồi xuống đi. Bây giờ chú ý nghe tôi nhắc. Anh nhớ Năm Căn không? Nhớ đi...
- Năm Căn Cà Mau?
- Còn Năm Căn nào nữa. Ngày ấy anh chỉ là một anh thủy thủ quèn mà làm tàng... Nhớ đi. Rán coi. Tôi nhắc thêm nghe. Thấy trên cánh tay bọn tôi có bốn dấu xâm, anh ba hoa giảng lung tung rồi bảo chúng tôi đi đi, mau mau về nhà lo làm ăn mà kiếm tấm chồng...
À á. Năm Căn. Bốn vết xâm. Tôi bắt đầu nhớ. Chuyện đã mười mấy năm trước, hồi tôi mới vào lính. Sau 2 tháng được huyến luyện quân sự ở Nha Trang, tôi xuống chiếc tàu Há Mồm ( HQ. 500) làm thủy thủ tập sự và được tham dự "Chiến dịch Sống Tình Thương" ở quận Năm Căn, tỉnh Cà Mau; Đây là nơi mà khi tàu ủi bãi, có mấy đứa con nít đến, dơ tay gõ vào thành tàu rồi la lên “bằng sắt thiệt tụi bây ơi"; Chúng tôi thấy lạ kỳ nên hỏi vậy chớ các em nghĩ tàu làm bằng gì. Bọn nhỏ nói các ảnh nói tàu làm bằng cạc tông.
Cũng trong chiến dịch này, có bữa địa phương quân đưa xuống tàu chúng tôi ba nữ giao liên gửi cho hải quân giữ chờ hải thuyền đến chở giao về tỉnh Cà Mau. Chiến dịch chấm dứt, tàu tôi được lệnh phải đi công tác khẩn chuyển quân ra miền Trung. Chỉ huy tàu bảo ba cô giao liên chỉ là bọn con nít, chẳng biết gì, cho lệnh phóng thích luôn. Tôi đang phiên gác với một ông Trung sĩ nên được lệnh xuống phòng tạm trú dẫn ba cô lên bờ thả cho đi. Đúng là cả ba đều con nít, hai cô 15 tuổi, cô lớn chắc cũng chỉ 16, 17 tuổi. Thấy trên cánh tay các cô có 4 dấu xâm, tôi nói:
" Các cô có biết 4 dấu chấm xâm trên cánh tay ý nghĩa là gì không? Sinh Bắc Tử Nam là để cho người miền Bắc vượt tuyến vào Nam thề chiến đấu cho đến chết vì Bác vì Đảng. Các cô sinh ở miền Nam không lẽ Sinh Nam Tử Bắc hay Sinh Nam Tử Nam thì chống lại với người Miền Bắc hay sao? Về xóa hết đi lo làm ăn kiếm tấm chồng mà sống cho bình thường. Chuyện đánh nhau là chuyện của đàn ông, con trai đừng xía vào cho khổ thân.”
Không lẽ chỉ nói chừng đó mà thành mối hận để bay giờ phải trả. Thấy tôi nín thinh, cô cán bộ áo trắng nhắc tiếp:
“Anh nhớ thêm đi. Lúc anh bảo ba cô đi đi, tôi không chịu đi mà đòi anh đem giao chúng tôi cho tỉnh Cà Mau. Anh hỏi tại sao thả mà không chịu đi mà đòi giao cho tỉnh. Tôi nói chứ không phải thả đi để các anh bắn từ phía sau lưng hay sao? Anh phá ra cười rồi hỏi ai bảo các cô vậy? Tôi nói nghe các anh lớn nói. Anh hỏi lại nếu thả để bắn sau lưng thì còn ai sống mà kể lại cho các anh lớn biết. Rồi anh tiếp là chẳng những hải quân mà tất cả các binh chủng khác cũng không có binh chủng nào thả người rồi bắn sau lưng. Anh còn nói bắt người thì phải đưa ra tòa xét xử, nếu có tội thì phạt tù chỉ khi nào giết nhiều người, làm hại nhiều người thì mới bị kết tội tử hình công khai chứ không bao giờ bắn sau lưng cả. Anh nhớ ra chưa?
Thấy giọng cô ta bỗng như dịu lại, không có vẻ gì là hằn thù, tôi làm bộ như vừa chợt nhớ ra và kêu:
- A...A... Cô có thể cười cho tôi coi không?
- Có lẽ anh đang nhớ ra rồi; vì ngày đó anh có khen tôi cười có hai lúm đồng tiền nên dễ kiếm chồng lắm.
Cô ta nhìn thẳng vào mặt tôi và cười. Hai lúm đồng tiền, bên phải sâu hơn bên trái.
- Đúng rồi. Đúng cái mặt cười năm xưa. Tôi nhớ sau khi tôi khen cô bé còn nguýt tôi một cái thật dài. Tôi nhớ hoài cái nguýt dài ấy.
- Ở đó mà cô bé, cô bé....
Tức thì thêm một cái nguýt dài trên mặt cô cán bộ. Đôi má lúm đồng tiền bỗng như linh động hơn.
Sau cái cười và cái nguýt dài của cô cán bộ áo trắng, tôi cảm thấy nhẹ người.
- Anh nhìn lại coi. Hơn 12 năm rồi. Đâu còn con bé nào ở đây.
Đến lượt tôi cũng nhìn thẳng vào mắt cô ta và cười. Câu chuyện từ lúc này bắt đầu thấy dễ chịu. Tôi nói:
- Sau khi đưa các cô tới gần cái chợ nhỏ bên sông, thấy chỗ an toàn, tôi mới bảo các cô đi đi. Khi các cô đi qua khu chợ, tôi còn đi theo một đoạn canh chừng. Không thấy cô ngó lui.
- Tôi không ngó lui nhưng biết anh đi theo. Chắc anh không thể ngờ là khi về nhà rồi, ngay ngày hôm sau tôi còn trở lại khu bến sông ấy, nhưng tàu của anh đã đi rồi.
- Tôi có nghe viên trung uý vừa rồi gọi cô là đồng chí bí thư. Chắc cô đã là đảng viên lâu năm.

- Vậy là anh đã nghe. Đúng là tôi đã 12 tuổi đảng. Ngay khi trở về, tôi được kết nạp đảng. Sau đó được chuyển về làm công tác nội thành, theo dõi thầy cô và hiệu đoàn học sinh trường trung học Cà Mau nên tôi học thi lại Tú tài 1 và năm 65, tôi đậu luôn Tú Tài 2. Sau đó ít lâu, tôi chuyển về công tác nằm vùng tại đại học Long Xuyên cho tới ngày giải phóng. Anh không biết là bao năm qua, tôi vẫn tin là sẽ có ngày tôi gặp lại anh...
Tôi nói:
- Thì chúng ta đang gặp nhau ở đây. Hôm nay tôi đã là người tù. Cô là người thắng trận. Ngày ấy, thấy trên cánh tay các cô có mấy vết xâm, tôi lỡ nói mấy câu gì đó. Mong cô không để tâm.
- Anh khỏi cần phải mong. Mấy câu anh nói ngày ấy tôi không bao giờ quên. Hôm nay tôi cố ý mang áo sơ mi ngắn tay để anh thấy trên tay tôi không còn vết xâm nữa. Tôi đã xoá bỏ chúng từ lâu. Anh thấy chưa, không còn dấu vết hay để thẹo gì cả.
Cô ta vừa nói vừa đưa cánh tay ra. Thấy tôi im lặng, cô ta nói luôn:
- Anh không cần phải sợ tôi. Hơn 12 năm trước, khi trở lại bến sông ở Năm Căn tìm anh, tôi chỉ muốn anh biết là tôi cám ơn anh. Hôm nay cũng vậy. Trước đây, khi bắt đầu đi tìm tông tích anh, tôi chỉ mong một lần gặp lại coi anh sống ra sao, vợ con dùm đề thế nào. Khi coi hồ sơ, tôi đến địa chỉ ghi trong lý lịch thì ra là nhà của ông ngoại anh chứ không phải nhà của mẹ anh.
Tôi hỏi địa chỉ và đến thăm mẹ anh ở xóm Tân Vạn. Chính bà than phiền với tôi là cho đến nay anh vẫn còn độc thân. Nhìn hình trong nhà, tôi nhận ra anh ngay. Bao năm qua, tôi không thể quên ánh mắt tinh nghịch nụ cười nửa miệng của anh. Mẹ anh kể là mấy cô bạn anh toàn là gái giang hồ, bán bar. Anh sợ lập gia đình nên không dám quen gái nhà lành. Mẹ anh nói có lần bà bảo anh cưới cô giáo nhà bên cạnh nhưng anh nói không muốn có vợ vì sợ phải nuôi con thiên hạ. Anh biết vì sao mẹ anh kể tôi nghe mọi chuyện về anh không?
- Vì cô hỏi thì bà kể. Mấy chuyện đó có gì đâu mà mẹ tôi phải dấu.
- Không phải vì tôi hỏi mà mẹ anh rất thương tôi, tự bà kể ra. Bà muốn tôi phải biết tất cả về anh. Tại sao anh biết không? Tại tôi nói với mẹ anh rằng tôi là người thương của anh. Anh đã tính đưa tôi về ra mắt mẹ nhưng chưa kịp làm. Tôi không chỉ nói mà còn ở lại với mẹ anh hai ngày hai đêm. Bà nói với tôi không sót điều gì, từ ba anh tới bà con chú bác dòng họ. Mẹ anh còn nói bà thiệt mừng khi thấy tôi tự đến ra mắt bà. Hôm nay gặp lại anh, chúng ta không có nhiều thì giờ để vòng vo nên tôi phải nói luôn với anh chuyện này. Tôi thật lòng muốn làm bạn với anh.

Một cô cán bộ 12 tuổi đảng muốn làm bạn với tôi. Chuyện thật khó tin. Tôi nói:
- Cám ơn cô nhưng tôi chỉ là một tên tù không biết ngày nào về, làm sao có thể là bạn của cô được.
- Ngày xưa anh từng mang tôi ra khỏi nhà tù, lần này, đến phiên tôi sẽ cứu anh ra khỏi nơi này.
Chuyện tưởng như đùa nhưng cô ta nói nghe chắc như ăn bắp. Tôi từng nghe chuyện lý lịch với phía cộng sản là sinh tử. Có nhiều cán bộ cao cấp tập kết ra Bắc nay thấy con cháu đi tù cải tạo mà ngó lơ, không ai dám dỡn mặt với kỷ luật đảng. Tại sao cô cán bộ này dám nói ra miệng là sẽ ra tay cứu mình. Cô ta là thứ bí thư gì vậy. Âm mưu gì đây mà cô ta phải tìm đến ở với mẹ tôi mấy ngày đêm để nắm hết lý lịch bí ẩn của tôi. Mẹ tôi vốn cả tin. Chưa bao giờ tôi mang bất cứ cô nào về nhà ra mắt mẹ.
Nay thấy một cô gái có vẻ con nhà lành dễ thương tới xưng là người tình của thằng con, bảo sao bà ta không tin ngay mà thương. Nhưng tôi đâu có khờ như bà mẹ mình được. Tôi nói:
- Cô đã biết hết lý lịch thật của tôi. Tất cả rồi sẽ bị phanh phui, chắc tôi sẽ khó sống. Cô tuy có 12 tuổi đảng nhưng dính đến tôi sẽ có ngày liên lụy. Xin cô tha cho tôi.
Cô ta cười to và nói:
- Anh khỏi lo dùm tôi. Tôi đã hứa là sẽ làm. Anh cứ sống bình thường như mọi người trong trại là được rồi.
Cô ta đưa cho tôi một túi quà và nói:
- Đây là quà của riêng tôi biếu anh. Mẹ anh cũng muốn gửi quà nhưng tôi nói bà cứ giữ đó. Tháng tới tôi sẽ đưa bà lên thăm anh. Thôi, anh về đi. Trưởng Trại có lẽ sắp trở lại.
Tôi nhận gói quà, chào cô ta ra về mà gần như người mất hồn. Về tới trại giam, tôi chỉ trả lời qua loa trước những lời dò hỏi của bạn tù.
Đúng như lời hẹn, tháng sau cô ta đi cùng với mẹ tôi lên thăm. Không phải thăm riêng mà bình thường như bao người cải tạo khác. Cùng gặp một lúc tại nhà thăm nuôi, chỉ 15 phút.

Mọi lời lẽ nói với người thăm gặp phải diễn ra trước mặt viên cán bộ phụ trách. Từ đó, cô ta tiếp tục đi cùng mẹ tôi đến thăm tôi hàng tháng. Chẳng thể nói gì, tôi đành phó thác cho số phận. Thấy cô cán bộ 12 tuổi đảng đóng vai phó thường dân ngồi cười cười bên bà mẹ thăm nuôi, tôi nổi tánh lì, trò chuyện tự nhiên, đôi khi còn chọc cười như ngày xưa ở các bars hay động. Tôi còn gì để mất? Cô ta muốn gì ở tôi? Tôi có gì để mà lợi dụng? Thôi thì phó mặc cho số phận.
Tháng Một năm 1976, một buổi chiều vừa ăn cơm xong, sắp tới giờ điểm danh vô chuồng, bỗng có cán bộ cầm danh sách đến gọi đúng tên tôi bảo thu dọn gọn lẹ đồ đạc cá nhân mang theo ra điểm danh.
Bất ngờ gọi tên lúc chiều tối hẳn không phải lệnh tha. Thu dọn đồ đạc mang theo kiểu này chỉ có thể là chuyện trại. Nơi tập họp điểm danh là sân trại. Số tù được gọi ra điểm danh có hai mươi mấy mạng, trong số này có anh chỉ còn một chân. Một cán bộ trẻ mang lon thiếu uý dẫn chúng tôi đi ra cổng. Không thấy xe cộ gì. Cả bọn cuốc bộ, không thấy có quản chế súng ống kèm sát như khi đi lao động. Một tên đánh bạo hỏi:
- Chúng tôi đi đâu đây cán bộ?
- Đi tới nơi làm lệnh tha.
- Tha về hả cán bộ?
- Bộ tha rồi không về ở lại ăn hại à?
Cả bọn nửa tin nửa ngờ; Trời bắt đầu tối. Thả vào giờ nầy, xe cộ đâu mà về?
Cả bọn được dẫn ra đến nhà thăm nuôi. Đèn được thắp sáng. Có viên trung uý xưng là chánh trị viên tôi từng gặp đợi sẵn. Thấy tôi trong đoàn người, anh ta cười ra vẻ “hồ hởi” bảo hôm nay anh sẽ thấy cách mạng luôn có tình có lý. Các anh tập trung lại bàn thăm nuôi khai lại địa chỉ và người nhà cho chính xác một lần, sau đó sẽ nghe đồng chí trại trưởng tới nói chuyện.
Chừng nửa giờ sau, Đại Úy Trưởng Trại ra tuyên bố:
- Các anh thuộc diện gia đình cách mạng được bảo lãnh cho về; Kể từ giờ phút nầy tuyệt đối không được liên lạc với những người trong trại; Từ đêm nay các anh ăn ngủ tạm tại nhà thăm nuôi này. Cán bộ sẽ phát mền chiếu v.v.., gạo và lương thực để các anh tự nấu nướng. Ngày mai sẽ làm thủ tục nhận lại đồ ký gởi và lệnh tha. Sau đó chờ liên lạc, gặp gỡ thân nhân bảo lãnh và làm lễ ra trại. Trong mấy bữa chờ làm lễ, các anh tuyệt đối không được liên lạc với các trại viên cũ.
Hôm sau, cả bọn được tập trung lên cơ quan nhận lệnh tha, tiền và đồ dùng ký gửi. Riêng phần tôi, kiểm lại thấy còn vài trăm bạc mới. Ba ngày sau, đã thấy đoàn người thân nhân trong đó có bà mẹ tôi có mặt tại nhà thăm nuôi. Hai mươi mấy tên tù được tha, kể cả tôi, hầu hết đều do mẹ là người bảo lãnh.
Cán bộ ra đưa cho một số tiền để mua thức ăn làm bữa tiệc chia tay. Một bà mẹ đến từ Cao Lãnh nghe nói trước là chủ nhập cảng các loại máy ghe tàu, “xung phong” nhận sẽ “ủng hộ” thêm tiền chợ và còn tình nguyện lãnh đi chợ dùm.
Bà ta hỏi có thể cho một hay hai người đi theo mang phụ thức ăn. Cán bộ nói:
- Bây giờ thì các anh có thể đi tự do; muốn mấy người theo cũng được.
Thế là khu chợ gần Trại Cải Tạo Vườn Đào được một buổi chợ trúng mối. Heo, gà, vịt, tôm càng, cá... rau cải mua nguyên thúng, nguyên sàn, hỏi giá bao nhiêu là mua bấy nhiêu khỏi cần trả giá; tiền chợ được bà chủ Cao Lãnh xuất hầu bao, mớ tiền chợ ít ỏi do trại phát có lẽ được bà mẹ này cất riêng để làm kỷ niệm ngày con được ra tù.
Tiệc chia tay thức ăn ê hề nào gỏi, nào ca ri, cá hấp, tôm càng nướng, thịt heo, gà, vịt luộc. Thế rồi tiệc cũng bế mạc. Thức ăn gần như còn nguyên vì ai cũng chỉ nếm cho có vị và cán bộ cũng không dám ăn bửa tiệc đắt giá đáng mấy chục lần số tiền cho để làm tiệc. Mấy Bà xin đem thức ăn cho mấy người trong trại thì cán bộ không cho bảo phải đem chôn hết.
Ra khỏi trại mọi người đứng chờ đón xe Mộc Hóa để về Cai Lậy. Từ phía hàng rào trại, thấy lố nhố người đứng trông ra. Tôi quay lui, cũng không dám nhìn lâu không còn nhận được dáng của đứa nào!.
Tôi nói với Má:
- Mình đi lần, bao giờ có xe thì đón. Chứ đứng đây chờ nhìn vào các bạn trong kia nhìn ra, con thấy bất an!
Tôi và má Tôi đi lần dọc theo lộ. Tất cả gần như thấy vậy cũng đi theo.
Là người tù trại Vườn Đào được về sớm, tôi biết thân ở yên với mẹ già. Chòm xóm không thấy làm khó dễ.
Sau khi được trao trả quyền công dân, tôi còn được cử ông Nông Hội Ấp đề nghị tôi làm trung đội trưởng lao động ấp; mọi người vỗ tay táng thành. Thế là từ đó ai thấy tôi đến nhà là biết bị gọi đi lao động không công cho XHCN, nào đào kinh, lấp kinh, rồi nước đọng cây trái bị úng nước, ruộng lúa bị ngập nước không rút kịp lâu ngày cây cối chết, lại phải đi phá đập, vác lúa thu thuế... Tôi không dám nhìn khi thấy bà con nông dân ai cũng đầy nước mắt khi bồ lúa vơi đi hơn phân nửa để đóng thuế. Nghe nói lúa thuế được chở tiếp tế cho Miền Bắc.
Mỗi tháng Cô Bí Thư đều đem nhiều khô mắm từ Cà Mau lên thăm Tôi và ở chơi 3 hay 4 ngày. Cô ta ngủ chung với mẹ tôi, vẫn có vẻ được bà thương mến, tín cẩn. Tôi cũng không nói hay hỏi gì thêm ngoài việc cho mẹ biết là bà đã vô tình đem sói vào nhà vì cô ta là nữ bí thư trên 12 tuổi đảng.
Cũng có lần cô ta biệt tăm luôn 3 tháng; rồi một hôm bỗng đến thăm với nhiều quà từ miền Bắc. Cô cho biết vừa đi tập huấn ở Hà Nội về. Tôi hỏi:
- Em sáng mắt ra chưa?
Cô ta lườm và nói:
- Anh chưa thấy quan tài nên chưa biết đổ lệ!
Đầu năm 1980, Cô ta đến thăm và tối hôm đó có mặt mẹ của tôi. Cô ta nói:
- Mẹ muốn em lo cho anh ra đi; nhưng em có điều kiện là anh phải nhận em làm vợ cho đến khi định cư rồi sau đó tùy anh. Em cho anh một tháng để suy nghĩ và trả lời em.
Mẹ tôi khuyên tôi nên nhận cô ta làm vợ vì cô ta thương tôi thật sự. Tôi thì nghĩ không hẳn. Cô ta bỏ nhiều công phu tìm tôi, giúp tôi và nay muốn cùng tôi vượt biên với tư cách là vợ một sĩ quan hải quân để làm gián điệp như bao trường hợp nằm vùng khác, có người làm tài xế, người giúp việc trung thành tận tâm cả chục năm nhưng sau tháng tư đen thì mới lòi mặt thật. Nhưng đâu còn đường nào khác để tính.
Chưa đầy một tháng sau cô ta lên và bảo tôi chỉ đem theo một bộ quần áo gọn nhẹ để mai đi. Tôi hỏi:
- Em chưa biết anh có đồng ý hay không mà bảo ra đi.
- Thông minh như anh thì không bao giờ bỏ mất dịp may, vì anh không mất gì cả, kẻ mất nhiều nhất là em nhưng là em tự nguyện; Mọi chuyện ra sao sau này anh sẽ biết.
Tôi hỏi cô ta có an toàn không.
- Anh có cần có tàu Hải Quân biên phòng hộ tống hay không? Nếu muốn em cũng có cho anh.
Tôi nghe mà khiếp. Chẳng rõ cô ta nói đùa hay nói thật. Cỡ bí thư huyện ủy cũng không thể có quyền vào Bộ Tư Lệnh Hải quân xưa để thăm kẻ thù; Không hiểu cô ta là thứ gì? Không ra hải ngoại để nằm vùng hay làm gián điệp thì còn gì nữa? Nghĩ vậy nhưng thôi kệ. Cô ta làm gì ngày mai tính sau, cứ thoát ra khỏi nước cái đã. Thế là chúng tôi từ giã mẹ ra đi.
Tàu vượt biên dài 12 mét mới toanh, máy cũng mới và số người đi là 52 người do một cựu hàng hải thương thuyền ngày xưa lái; nhưng cuối cùng 26 người bị rớt lại vì ghe nhỏ chuyển ra ghe lớn bị chận giữa đường mà trong đó có gia đình tài công. Cô bí thư hỏi:
- Anh lái được chứ ?
- Lái được nhưng không có bản đồ mà chỉ có la bàn thì phải chạy thẳng ra hải phận quốc tế rồi theo hướng Tàu buôn mà lấy hướng đi thì sẽ sang Singapore hay tấp vào các đảo của Indonesia.
Tôi lái suốt 5 ngày đêm mới gặp một ghe đánh cá của Indonesian và hỏi thăm thì được chỉ cho một chỗ cách đó không xa. Tôi lái vào và ở đó một ngày một đêm thì được tàu của Indo đưa đến trại tị nạn Kuku. Một tháng sau chúng tôi được đưa sang trại Galang và dĩ nhiên trong lý lịch của Hải quân Trung úy VNCH nay có thêm cô vợ bí mật nhiều phần là gián điệp.
Trên bước đường lưu vong quê người xứ lạ làm thân thất quốc, chúng tôi cô đơn lạc lõng như nhau. Ngày qua ngày cả hai đứa đi học tiếng Anh về nấu cơm chung rồi chung mùng và thành vợ chồng thật.
Ở Galang tôi gặp lại bạn bè quân ngũ xưa; vì gần như mỗi tàu là có đôi ba hải quân xưa được đi không tốn tiền để lái tàu. Quán Trùng Dương là nơi tụ họp để nhận ra nhau kể chuyện xưa và bàn chuyện tương lai. Các cựu hải quân xưa làm sổ lưu niệm giống như thời học trò viết lưu bút ngày xanh cho những tháng nghỉ hè. Lắm ông ghi cả số quân đơn vị xưa và dán cả hình. Ôi các quan lính ơi Tôi mà đem cái sổ này về thì e rằng cô bí thư mười mấy tuổi đảng sẽ lén ghi lại hết gởi về Bắc Bộ phủ thì gia đình các ông cũng mà khó sống ở VN!. Tôi từ chối viết sổ lưu niệm và cũng không đến quán hội họp nữa.
Cũng tại trại Galang, tôi có người bạn trước là thiếu úy ngành điện khí được mướn làm người gác máy điện phụ cho một thợ điện người Indo. Anh Indo này khá am tường về tình hình VN và có phân tích như sau:
- Các anh vượt biên nghĩ rằng ra ngoại quốc rồi Mỹ sẽ giúp cho thành lập một đoàn quân để trở về dành lại VN. Có lẽ các anh lầm rồi. Mỹ không bao giờ giúp các Anh đâu vì giúp các Anh; Mỹ được lợi gì? Các anh đánh nhau mà nhiều nữ tính quá. Nhân đạo với kẻ thù thì chỉ có con đường chết; Phải như chúng tôi kìa. Chỉ một đêm thôi không một tiếng súng; toàn dùng dao, búa, mã tấu mà giết cho tuyệt giống cộng sản. Chỉ một đêm là xong gần triệu mạng...
Sáu tháng sau chúng tôi được đi định cư. Tôi không tham gia đoàn thể nào, không hội họp với cả hội đồng hương nhưng lúc nào cũng canh chừng cô vợ bí thư đảng viên.
Cô ta cũng như tôi chẳng quen ai; đến cả dùng điện thoại cô ta cũng không sử dụng. Mẹ tôi mất năm 83. Mẹ cô ta mất năm 84. Năm 90 ba tôi và ba của cô ta cùng mất trong một năm. Chúng tôi nhận thư nhưng không về và đến nay cũng chưa về. Chúng tôi đồng ý không có con. Tôi 72 và vợ 70 tuổi; nếu còn ở Việt Nam, cô ta nay đã 52 tuổi đảng, không biết làm tới chức gì.
Mất nước bốn mươi năm, lưu vong hơn 35 năm, chúng tôi chưa bao giờ có ý định về thăm lại quê hương. Trong lòng tôi đã chôn một chế độ và trong lòng vợ tôi cũng chôn một chế độ. Chúng tôi không con nối dòng nên khi chúng tôi chết thì "cả hai chế độ" cũng tan thành tro bụi. Với tôi, vậy là chôn xong hai chế độ. Ngày ấy không xa.
Kỷ niệm 40 năm.
Trần Thiện Phi Hùng

--

Phạm Tín An Ninh

 

Nỗi buồn cuối đời của một
người lính già lưu lạc

(Viết tặng Song Vũ và những người vợ lính trung hậu)
Phạm Tín An Ninh
Dạo sau này, anh không thường gọi tôi để hàn huyên như những năm trước. Ở cái tuổi trên 80, chồng chất bao nỗi đau buồn từ sau ngày gãy súng, tan hàng, tù tội, ly hương, rồi trải qua bao nhân tình thế thái, mới đây lại phải chứng kiến cảnh chiến hữu, huynh đệ đồng môn, chỉ vì có chút bất đồng mà nặng lời nhau, rồi quay lưng, chia ba xẻ bảy, nỗi chán chường càng đè nặng trong lòng, cộng thêm một vài chứng bệnh tuổi già, làm cho anh không còn thiết tha một điều gì nữa. Nói chuyện với anh, tôi cũng trở nên dè dặt, chỉ nghe giọng nói để đoán anh đang vui hay buồn và không dám nhắc lại những biến cố nào có thể làm vết thương trong lòng anh nhói đau trở lại, dù biết anh vẫn luôn quí mến tôi như ngày xưa, cả một thời cùng vui buồn, sống chết bên nhau. Đặc biệt, chúng tôi ở cạnh nhau trong khu cư xá của đơn vị, nên hai gia đình lại càng thân tình, gắn bó. Sau này trở thành cấp chỉ huy trực tiếp của tôi, nhưng lúc nào anh cũng xem tôi như em hay một người bạn nhỏ. Anh lớn hơn tôi đúng ba tuổi. Lúc ấy chúng tôi đều còn khá trẻ, cả hai vừa mới có hai đứa con đầu. Vợ anh là người đàn bà trẻ xuân sắc, hiền thục, đảm đang, hết mực lo lắng, chăm sóc chồng con, và cũng như những người vợ lính khác, luôn âm thầm cầu nguyện và hồi hộp trông chờ chồng bình an trở về sau các cuộc hành quân.
Buổi sáng ngày 6 tháng 12 năm 2023, đang giữa mùa đông Cali, ngoài trời mưa lạnh, tôi thức dậy sớm nhưng vẫn còn trùm chăn nằm nán trên giường. Nghe tiếng điện thoại reo, nhìn trên mặt điện thoại, đồng hồ chỉ 6 giờ kém 15 phút và tên anh hiện ra, tôi nghĩ chắc phải có điều gì đặc biệt lắm anh mới gọi vào giờ này. Tôi ngần ngừ với một chút lo âu và nghe giọng nói đầy cảm xúc:
– Bà xã anh vừa mới mất. Anh báo tin em biết.
Dù đã đoán trước có điều không lành, nhưng tôi vẫn mất chút bình tĩnh, khựng lại giây lát rồi buột miệng:
– Chị mất lúc nào, anh?
– Mới sáng sớm hôm nay, khoảng gần 2 giờ trước.
Hình dung đến hình ảnh của anh chị trong lần vợ chồng tôi mới đến thăm cách đây hơn một tháng, muốn hỏi đôi điều về sự ra đi của chị, nhưng tôi nghẹn ngào nên chỉ nói thêm được một câu:
-Vợ chồng em xin chia buồn với anh và các cháu. Anh cố gắng giữ gìn sức khỏe để lo cho chị!
Hai hôm sau tôi gọi lại để được nghe anh nói về nguyên nhân sự ra đi của chị và chương trình dự trù cho ngày tang lễ,
Sáng ngày 26.12.2023, cùng vài người bạn đơn vị xưa, từ nhiều nơi, chúng tôi có mặt tại Oak Hill Memorial Park ở thành phố San Jose để tiễn đưa chị về cõi vô cùng và trực tiếp nói lời phân ưu đến anh cùng các cháu.

Đứng bên di ảnh của chị đặt phía trước quan tài, đầu bịt khăn tang trắng, trông anh thật tiều tụy, làm chúng tôi đau xót, nghẹn lời. Định tâm tình với anh nhiều điều nhưng rồi cũng chỉ thốt được đôi câu trong nghẹn ngào, nước mắt. Anh đứng bất động, tôi có cảm giác như nhìn thấy được bao đau đớn, xót xa đang tràn ngập trong lòng anh. Hướng về phía chúng tôi, nhưng chắc trong sâu thẳm từ ký ức, anh đang hình dung đến chị, với cả một đời hy sinh, thua thiệt, đặc biệt khi chồng mình bất ngờ trở thành người bại trận, tù tội oan khiên, và chị cùng các con cũng trở thành nạn nhân trả thù hèn hạ của đám người thắng trận.
Tháng 9 năm 1983, tôi ra tù trước anh. Trước khi về quê ở miền Trung tôi ghé vội lại Sài gòn tìm thăm chị và các cháu. Sau nhiều năm nên trí nhớ khá mơ hồ, nhưng rồi tôi cũng tìm đến đúng nhà của anh chị. Một ngôi nhà nhỏ trong khu Khánh Hội, bên kia cầu Calmette, mà bà cụ, mẹ anh đã để lại sau lúc qui tiên. Cửa đóng. Tôi gõ nhẹ, ngạc nhiên khi thấy một người đàn bà lạ bước ra, nói giọng Bắc rất khó nghe. Tôi bảo đến tìm thăm bà chị, nhưng không ngờ nhà đã đổi chủ. Người đàn bà lắc đầu, nhưng lại bảo mẹ con bà ấy vẫn còn ở đây, và chỉ tôi xuống cái chái bếp phía sau nhà. Tôi ngỡ ngàng khi trông thấy chị và bốn đứa con nhỏ sống chật chội trong căn bếp, chỉ đủ kê một cái giường nhỏ. Chị bảo căn nhà trên đã bị tịch thu và mẹ con chị bị đuổi xuống xó bếp này. Chị nở một nụ cười chua chát: “cũng còn may là không phải đi vùng kinh tế mới, nhờ mấy đứa con còn quá nhỏ!”
Mồ côi cha khá sớm. Năm 1954, gia đình anh kẹt lại miền Bắc. Mãi đến năm 1957, anh cùng mẹ và cậu em trai mới rời quê Hải Phòng, theo một vài người bà con, vượt biển vào Nam bằng chiêc thuyền buồm. Khi đến Quảng Bình, tưởng đã qua khỏi sông Bến Hải, cặp vào bờ thì bị bắt. Nhờ sự khôn khéo của mẹ, cả ba mẹ con được thả sớm. Năm sau mẹ lại quyết tâm đưa các con ra đi lần nữa, và lần này may mắn đã đến Cửa Việt. Ba mẹ con được sắp xếp tạm cư ở thành phố Huế. Anh tiếp tục đến trường. Cậu học trò vừa tròn 18 gặp cô học trò hàng xóm, nhỏ hơn mình một tuổi, từ xứ Quảng ra Huế trọ học ở nhà bà chị có chồng làm công chức. Thấy cô bé xinh xắn dễ thương nên chàng trai Hải Phòng đem lòng cảm mến, chứ khi ấy cả hai đang còn đi học nên đâu dám tính chuyện yêu đương, Nhưng chỉ hơn một năm sau, vì không thuận tiện cho việc sinh nhai, bà mẹ lại dẫn hai con vào Sài gòn tái nghiệp. Thời ấy phượng tiện liên lạc khó khăn nên hai người mất tin nhau. Sau khi đậu tú tài, anh tình nguyện vào Khóa 17 Trường Võ Bị Đà Lạt. Ngày nhập học, anh bất ngờ gặp lại một người bạn học cùng xóm cũ lúc còn ở Huế, và bất ngờ hơn khi nghe anh bạn cùng khóa này nhắc tới cô bé học trò xứ Quảng ngày xưa, bảo “con bé bây giờ xinh lắm” rồi cho địa chỉ khuyên anh nên viết thư thăm “mi cố giữ đừng để mất con bé này, uổng lắm!” Người bạn đồng môn ấy sau này là Đại Tá Võ Toàn, đã ra đi trong những giờ phút cuối cùng theo vận nước.
Nhờ người bạn này mà anh gặp lại người xưa. Rồi theo tiếng gọi của con tim, chị rời miền Trung vào Sài gòn trọ học ở nhà một bà chị khác có chồng đang là Trưởng ty Cảnh Sát Gia Định. Anh ghé thăm vội vã trong bộ quân phục SVSQ khi về thủ đô tham dự cuộc diễn hành nhân ngày Quốc Khánh 26.10 năm ấy.
Cuối tháng 3-1963 ra trường, anh về trình diện Sư Đoàn 7.BB để chính thức bắt đầu cuộc đời lính chiến. Anh làm đám cưới khi đang là đại đội trưởng trinh sát, và chị bắt đầu cuộc đời làm người vợ lính. Đơn vị anh hoạt động quanh vùng Mỹ Tho, Kiến Phong, Hậu Nghĩa, Bình Dương…Thời gian hạnh phúc ngắn ngủi là những lần anh trở về vội vã sau các cuộc hành quân, để sau đó là những ngày đêm triền miên nhớ nhung, âu lo, cầu nguyện. Sau khi sanh đứa con đầu lòng, theo lời khuyên của mẹ chồng, chị bồng con theo anh từ đó. Hết miền Tây sông nước, đến miền Trung nắng gió, rồi cuối cùng là Cao Nguyên bụi đỏ, mưa mùa. Sống trong các trại gia binh, chia sớt khổ nhọc lo âu với vợ con đồng đội đang cùng chiến đấu với chồng mình. Cũng lại xa vắng, đợi chờ và cầu nguyện theo bước chân chồng trong các cuộc hành quân, và đau đớn mỗi lần trong trại gia binh có thêm những vành tang trắng.
Anh làm đại đội trưởng, tiểu đoàn truởng rồi trung đoàn phó cho một đơn vị tác chiến lưu động, đêm ngày sống chết cùng đồng đội anh em. Lần điều động đơn vị tạo được nhiều chiến công hiển hách trong trận chiến Mùa Hè 1972 tại chiến trường ngập đầy khói lửa Kontum, anh được thăng cấp đặc cách và lên nắm trung đoàn.

Trước kia, khi cuộc chiến chưa khốc liệt thì đơn vị có khá nhiều thời gian sinh hoạt tại bản doanh, các vị trung đoàn trưởng có nhiều thời gian hơn để sống yên ả bên gia đình, nhưng giờ thì cả trung đoàn miệt mài nơi trận tuyến Kontum, Pleiku, trong khi hậu cứ cùng trại gia binh lại ở tận Ban Mê Thuột, xa tít mịt mùng. Nếu thi thoảng có dịp ghé thăm vợ con, cũng chỉ trong chốc lát. Cuộc chiến ngày một khốc liệt, đặc biệt sau ngày Hoa Kỳ đơn phương cùng CSBV ký Hiệp Định Paris quái đản vào cuối tháng 1/1973, cắt giảm gần hết viện trợ quân sự cho đồng minh VNCH, người chỉ huy như bị trói cả hai tay, đau đớn nhìn đồng đội phải chiến đấu trong cam go thiếu thốn. Đạn dược, phương tiện, Không yểm bị hạn chế tối đa, cấp chỉ huy lại càng đau đớn hơn khi em út phải hy sinh ngày một nhiều hơn trong ngậm ngùi, tức tưởi.
Trong mấy năm đi tìm chiến thắng tại các chiến trường khốc liệt Tây Nguyên này, anh đã mất khá nhiều những đàn em, những sĩ quan niên đệ và cả những người lính trung thành, từng bao năm cùng bên nhau sống chết mà anh hết lòng yêu thương, tin cậy, xem như anh em trong một đại gia đình. Giờ mỗi lúc nhìn lại đơn vị với nhiều khuôn mặt mới, anh cảm thấy buồn, xót xa vô hạn. Ngay từ thời điểm ấy, mỗi khi hai anh em có dịp ngồi tâm tình, anh đã buồn bã nhìn ra viễn cảnh bất hạnh, đau buồn về số phận những người lính chúng tôi cùng với cả quê hương đất nước. Dù vậy, anh vẫn âm thầm, kiên định một lòng chiến đấu bên cạnh đồng đội cho đến giờ phút cuối cùng. Trong giờ khắc tuyệt vọng nhất, đôi lần anh thoáng nghĩ đến cái chết, nhưng lại không đành lòng khi nhớ tới vợ con.
Ngày 11.3.1975 Ban Mê Thuột mất vào tay giặc. Trại gia binh trở nên bất an. Những người vợ lính vừa lo lắng cho sự an nguy của con cái vừa lo lắng cho chồng, không biết thân phận mình rồi sẽ ra sao. Được tin cả trung đoàn sẽ trở về tái chiếm Ban Mê Thuột, những người vợ lính lại thấp thỏm lo âu. Họ cũng có ít nhiều hiểu biết về kẻ thù và tìm cách đối phó. Họ nghĩ, sau khi chiếm được Ban Mê Thuột, chắc chắn Cộng quân sẽ cô lập và cho người trà trộn vào trại gia binh để theo dõi tin tức, tình hình, và biết đâu có cả nội tuyến. Có thể bọn họ biết anh đang chỉ huy đại đơn vị trở về tái chiếm, nên tìm bắt vợ con anh để làm con tin hầu gây áp lực, một số các chị đã âm thầm đưa chị và các cháu đi ẩn trốn, rồi sau đó tìm cách ra khỏi vùng Cộng quân tạm chiếm.
Sau một thời gian vất vả đói khát, chị và các cháu về đến nhà sau khi Sài gòn đã nằm trong tay giặc. Sau này, có dịp gặp lại các chị vợ của một số hạ sĩ quan và binh sĩ, tôi rất cảm kích khi nghe họ kể về lòng kính quí mà họ đã dành cho chị, vì chị sống rất bình dị, thân thiện và luôn giúp đỡ mọi người, cho dù chồng chị đang là cấp chỉ huy của trên dưới ba ngàn quân sĩ dưới quyền. Họ còn biết anh là một cấp chỉ huy trẻ tuổi, thao lược, liêm khiết, và cuộc sống của mẹ con chị cũng rất bình dân, đạm bạc.
Rồi hơn 13 năm anh bị tù đày, chị phải bươn chải từng ngày nuôi đàn con nhỏ giữa vòng vây thù hận chất chồng. Trong hoàn cảnh này, người vợ lính còn khốn cùng khổ nhục hơn so với chồng mình đang phải sống trong tù ngục. Ngày xưa, chắc người phụ nữ Việt nam chưa có thời nào phải khốn khổ bằng lúc này, vậy mà nhà thơ Hồ Dzếnh đã vinh danh bằng mấy câu thơ để đời:
Nếu chữ hy sinh có ở đời
Tôi muốn nạm vàng muôn khổ cực
Cho lòng cô gái Việt nam tươi
Nếu còn sống đến bây giờ, không biết ông nhà thơ sẽ nạm những gì cho xứng đáng với tấm lòng của những người vợ lính miền Nam trung hậu thủy chung?
Rồi anh cũng được trở về với tấm thân tiều tụy và một tương lai mờ mịt. May mắn nhờ có chương trình HO, anh đưa chị cùng các cháu, đành lòng rời bỏ quê hương cùng mồ mả mẹ cha để sang vùng đất hứa. Mang theo bao thương tích đang còn trên thân xác lẫn trong tâm hồn, với cái tuổi đã hơn nửa đời, người ta sẽ chẳng dễ dàng gì để làm lại cuộc đời trên vùng đất lạ – lạ từ con người, ngôn ngữ, đến khí hậu lẫn tập quán. Khi cố gắng hội nhập và lo cho các con tạm ổn định đời sống, học hành, thì tuổi già cũng vừa ập đến. Niềm vui vừa mới lóe lên thì nỗi buồn vì bệnh hoạn và những ký ức từ quá khứ trỗi dậy, đau nhói trong lòng.
Anh giải sầu bằng cách đọc sách, viết lách và nghiên cứu về thiền học. Niềm an ủi duy nhất là sự thành đạt của các cháu nội ngoại cùng tình huynh đệ đồng môn, chiến hữu. Anh thường bảo với tôi là, bọn mình đã mất hết giờ chỉ còn lại cái tình này. Nhưng rồi cách nay mấy năm, bất ngờ xảy ra chuyện bất hòa giữa những đồng môn mà anh từng xem trọng như huynh đệ một nhà, giờ quay lưng, chia ba xẻ bảy.
Sự kiện đau buồn này như một nhát dao cuối cùng chém vào tim óc vốn đã đớn đau già cỗi, làm anh muốn quỵ ngã. Có lần anh bảo nhỏ tôi: đừng nhắc lại chuyện đau lòng này nữa. Anh không chịu được!
Hôm nay, nhìn anh đứng thẫn thờ trước linh cữu của chị, chúng tôi biết anh buồn và đau xót lắm, bởi từ ngày đón cô con gái xinh đẹp xứ Quảng về làm vợ, anh đã trót nặng với lời thề quyết “không mưu cầu an lạc dễ dàng mà chỉ khát khao gió mưa cùng nguy hiểm”, để rồi khi “chí vẫn còn mong tiến bước mà sức thì không kham nổi đoạn đường”, nên cả cuộc đời chị cũng phải vì anh, khổ lụy.
Bây giờ chị đã ra đi, bỏ anh ở lại với sự cô đơn, cùng bao tiếc thương, trăn trở. Vết thương cũ trong lòng vẫn chưa lành, giờ đớn đau trở lại.
Vốn là một Phật tử thuần thành, chắc chắn anh đã ngộ được cái nghĩa “sắc không” của lẽ vô thường, nhưng tôi biết là anh vẫn đang xót xa đau đớn lắm, bởi từ lý thuyết, giáo lý, tới cảm xúc thực tế luôn là một khoảng cách khá xa. Thương và nhớ anh, nhưng tôi không dám gọi, ngại phải khuấy động thêm những con sóng ngầm còn lại đâu đó trong lòng anh. Cần có một thời gian nhất định nào đó để anh có thể bình ổn được tâm hồn.
Hình dung mai này, đặc biệt về đời sống tinh thần của anh sau ngày chị ra đi, lòng tôi bỗng lặng xuống khi nhớ tới một đoạn anh viết ở đâu đó trong “Sau Cơn Binh Lửa”, tác phẩm đầu tay của anh, xuất bản trước đây đúng mười năm:
“Tuổi đời chồng chất, sức khỏe và những hăng say của tuổi thanh xuân ngày tháng nguội dần. Tôi thấy cuộc sống mình hụt hẫng hoang mang. Mỗi năm lại vắng thêm đồng đội và rồi một ngày nào đó, cũng sẽ tới lượt mình. Điều tự nhiên này, thực chất chẳng phải là nỗi ưu tư bởi vì đó là quy luật. Nhưng điều làm tôi suy ngẫm là ý nghĩa về cuộc đời của chính mình, thế hệ chúng tôi, qua những việc đã làm, những đau thương đã trải…thực sự là gì? Hoặc chẳng là gì hết?”
Cầu xin ông Trời ban cho anh, và cho cả những người lính già lưu lạc chúng tôi, thêm nhiều nghị lực, để tiếp tục sống nốt những tháng ngày còn lại, dù chỉ trong vô vị khi bất lực nhìn quê hương, dân tộc mình tiếp tục điêu linh
Đầu năm 2024
Phạm Tín An Ninh

Nguyễn Thị Di Tản

 

Nguyễn Thị Di Tản


Chuyện người con gái có tên ‘Nguyễn Thị Di Tản’
Hoàng Thị Tố Lang



Tôi là họ Nguyễn. Chỉ riêng họ Nguyễn đã chứng tỏ tôi là người Việt Nam. Nhưng lúc rời Việt Nam tôi chỉ là cái bào thai trong bụng mẹ, theo mẹ trên đường di tản và chào đời trên đảo Guam. Từ ngày ấy, tên tôi là Nguyễn Thị Di Tản.

Đến nay 48 năm qua, tôi đã trưởng thành nơi miền đất tạm dung của một tỉnh lỵ miền Tây Canada. Thành phố Winnipeg, buồn hắt hiu như tâm sự “Người Di Tản Buồn” – bản nhạc của nhạc sĩ Nam Lộc mà mẹ rất yêu thích.

Ngày còn bé, bằng bài hát ấy mẹ đã ru tôi ngủ. Riết rồi tôi quen với từng lời ca tiếng nhạc. Mẹ nói đêm nào không nghe bài hát ấy thì tôi không ngủ. Đến lúc tôi bập bẹ biết nói, mẹ dạy tôi hát. Tôi vừa quấn quít bên mẹ vừa đỏ đẻ hát những câu cuối cùng:

“Cho tôi xin lại một lần, ở nơi tôi dừng quân cũ
Cho tôi xin lại bìa rừng, nơi từng chiến đấu bên nhau
Cho tôi xin một lời chào, chào bao nhiêu người đã khuất
Cho tôi xin một mộ phần, bên ngàn chiến hữu của tôi!”.

Bạn bè đến chơi, mẹ đem “con sáo” của mẹ ra khoe, bảo tôi hát. Mỗi lần hát xong các bạn của mẹ đều rươm rướm nước mắt. Có lần tôi thỏ thẻ hỏi:
“Sao con hát hay mà mẹ với các bác lại khóc?”

Mẹ ôm tôi vào lòng và nói: “Bao giờ lớn lên, con sẽ hiểu.”

Trí óc non nớt của tôi mơ hồ cảm nhận có điều khác thường ở mẹ, một sự mất mát lớn lao trong đời mẹ. Những lúc rảnh, sau giờ cơm chiều mẹ dạy tôi nói:
– Con là người nước nào?
– Dạ thưa, con là người Việt Nam.
– Con tên gì?
– Con tên là Di Tản.
– Con có yêu nước Việt Nam không?
– Con yêu Việt Nam lắm, vì đó là quê hương của con.

Tôi đã thuộc nằm lòng những câu mẹ dạy. Tôi đã quen với cái tên Di Tản, thấy nó ngồ ngộ, dễ thương làm sao á.

Khi tôi 5 tuổi, mẹ dắt tôi đến trường gần nhà ghi tên đi học. Lần đầu tiên đến trường, một khung cảnh mới, người mới. Các học sinh cùng lớp với tôi hoàn toàn là những khuôn mặt xa lạ.

Cô giáo cũng thế. Lúc mẹ chào cô ra về, tôi ở lại trường với tâm trạng thật lạc lõng, bơ vơ. Tôi muốn khóc. Tôi ngồi cô đơn trong góc lớp. Cô giáo rất trẻ, đến bên tôi nhỏ nhẹ hỏi:
“What is your name?” (Tên con là gì?)

Tôi cúi mặt, bặm môi chừng như rướm máu, lí nhí đáp bằng cái giọng Việt Nam đặc sệt “Dạ .. Di Tản.”

Cô giáo chừng như không hiểu, xem lại quyển sổ và nói: “Your name is Đaithen.”

Tôi lắc đầu và lặp lại “Di Tản”. (DiTan). Cả lớp rộ lên cười. Và tôi bật khóc!

Sau buổi học, mẹ đón tôi về. Suốt quãng đường về nhà tôi lặng thinh, không nói điều gì. Mẹ âu yếm hỏi:
– Con đi học có vui không?

Chừng như chỉ chờ mẹ hỏi, tôi òa lên khóc và nói:
– Sao mẹ không đặt cho con cái tên nào dễ kêu như Helen, Cindy hay Linda như tụi nó mà lại đặt tên là Di Tản? Cô giáo đọc không được tên con, mấy đứa cùng lớp tụi nó chọc ghẹo con!

Mẹ tôi dịu dàng, từ tốn bảo:
– Con có biết cả nước Canada có biết bao nhiêu là Helen, là Cindy không? Còn tên Di Tản chỉ có mỗi mình con. Con không thấy con đặc biệt sao? Con phải hãnh diện vì cái tên rất là Việt Nam của con mới phải chứ! Tôi nũng nịu pha chút hờn dỗi:
– Mà cô giáo đọc là Đaithen Mẹ thấy có kỳ không?
Mẹ trìu mến đưa tay vuốt tóc tôi, hiền hòa khẽ bảo:
– Tại cô không biết cách phát âm của người Việt mình thôi. Con phải đọc lại cho cô biết, rồi từ từ cô sẽ đọc đúng mà!

Giọng mẹ thiết tha hơn, chùng xuống, sũng đầy nước mắt:
– Mẹ đã mất tất cả rồi con ơi! Chỉ còn cái tên Việt Nam mà mẹ gởi cho con, con biết không?

Đầu óc của một đứa bé lên năm làm sao hiểu được hết những gì mẹ nói, song tôi biết mẹ buồn lắm. Có một cái gì làm mẹ khổ tâm lắm. Tôi cảm thấy ân hận. Tôi ôm mẹ hôn và nói:
– Con xin lỗi mẹ. Con làm mẹ buồn lắm phải không?
Tôi thấy mắt mẹ long lanh ngấn lệ:
– Không phải đâu, con của mẹ ngoan lắm!


Đó là chuyện ngày tôi 5 tuổi. Mãi cho đến những năm sau này, tên tôi vẫn là một đề tài cho lũ bạn chọc ghẹo. Nhưng chọc ghẹo cho vui chớ không có ác ý nào cả.

Lúc vào Highschool (Trung học) tôi đã lớn rồi. Tôi hiểu những u uất của đời mẹ và thương mẹ hơn bao giờ hết.

Thấm thoát tôi đã là cô gái 18. Soi gương tôi cũng biết mình đẹp lắm. Mẹ không cho tôi cắt tóc ngắn. Cả trường con gái, mái tóc dài chấm lưng với khuôn mặt Á Đông của tôi vẫn là một đề tài nổi bật nhất.

Lại thêm cái tên Di Tản nữa. Lúc này tôi không còn buồn mỗi lần bị giáo sư đọc trật tên. Bạn bè tôi, những đứa quen nhau từ lớp mẫu giáo đến giờ đã biết cách phát âm tên tôi đúng lắm. Tụi nó bỏ dấu còn lơ lớ nhưng tạm được.

Nhưng mỗi lần bắt đầu một niên học mới, tên tôi lại là một tràng cười cho lũ bạn cùng lớp mỗi khi giáo sư mới gọi tên tôi. Giáo sư nào cũng thế, ngập ngừng hồi lâu mới đọc.

Tôi cũng không nín cười được cái giọng như ngọng nghịu của một giáo sư Canada, đọc cái tên lạ hoắc chưa bao giờ nghe thấy. Trên tay cầm bài test của tôi, ngập ngừng rồi thầy gọi “Đai then”. Cả lớp ồ lên: “Oh, my god”. Giáo sư lúng túng, đảo mắt nhìn quanh. Cả lớp nhao nhao như bầy ong vỡ tổ. Chừng như tụi nó thích những dịp như thế để câu giờ, “nhứt quỉ, nhì ma, thứ ba học trò” mà. Con Linda ngồi cạnh hích cùi chỏ vào tôi khẽ bảo:

– Di Tản, ổng đọc sai tên mầy rồi kìa, sửa cho ổng đi.
Tôi đỏ mặt. Tôi chưa kịp nói gì cả thì tụi con trai ngồi sau lưng tôi ào ào lên như chợ nhóm:
– Di Tản, Di Tản not Đai then!Vị giáo sư lúc đó mới vỡ lẽ, biết là mình phát âm sai, ông gục gặc đầu nói xin lỗi và lập lại “Di Tản, Di Tản”…

Lúc nầy tôi không còn nhút nhát như ngày xưa nữa. Bạn bè tôi Tây, Tàu, Gia Nã Đại, đều “cứu bồ” mỗi lần có tình trạng như trên xảy ra. Dần dà mọi người gọi tên tôi rất ư là dễ thương.

Đến giờ nhớ lại những lời mẹ nói ngày nào, tôi hãnh diện vô cùng về cái tên mẹ đã cho tôi. Tôi thương mẹ vô cùng. Quê hương Việt Nam gắn với mẹ tôi như hình với bóng trong cuộc đời lưu lạc xứ người hơn một phần tư thế kỷ. Một điều mà tôi có thể khẳng định rằng, “dù hoàn cảnh có thể tách rời mẹ ra khỏi quê hương nhưng không thể nào tách rời quê hương ra khỏi tâm hồn mẹ được”.

Mẹ sống như chờ đợi, như mong mỏi một điều gì sẽ đến. Có lần tôi bắt gặp mẹ ngồi một mình trong đêm, tay mân mê, vuốt ve bức ảnh bán thân của cha tôi. Mẹ vẫn nuôi hy vọng cha còn sống và sẽ có ngày gia đình tôi đoàn tụ như xưa. Nhưng định mệnh đã an bài.

Sau khi nhờ một người bạn làm ở Usaid đưa mẹ con tôi di tản, cha hứa sẽ gặp lại mẹ sau.

Vậy là, mẹ bụng mang dạ chửa lên phi cơ theo đoàn người di tản và mong có ngày gặp lại. Nhưng niềm hy vọng đó vơi dần theo năm tháng, cho đến ngày mẹ được tin cha đã nằm xuống nơi trại tập trung cải tạo. Cuộc sống của mẹ đã thầm lặng từ bấy lâu, nay càng thầm lặng hơn.

Ngoài giờ ở sở, về nhà cơm nước xong, trò chuyện với tôi đôi lát rồi mẹ vào phòng. Cái khoảng đời quá khứ ngày xưa. Những kỷ niệm ngọc ngà ngày nào của cha và mẹ như chút dấu yêu còn sót lại. Mỗi lần nhắc tới cha, mẹ như trẻ lại, mắt long lanh ngời sáng. Mẹ kể cho tôi chuyện tình của cô sinh viên Văn khoa với chàng sĩ quan hải quân.

Tôi thuộc nhiều bài hát Việt lắm nên ghẹo: “Mẹ và cha giống em hậu phương và anh nơi tiền tuyến quá!.”

Ngoài tình mẹ con, tôi như người bạn nhỏ để Mẹ tâm sự, để mẹ trang trải nỗi niềm. Nào là “con biết không, cha con hào hoa, đẹp trai lắm.” …

Tôi nịnh Mẹ: “Cha không đẹp trai làm sao cua được mẹ!”.

Mẹ cười thật dễ thương. Một điều mà tôi biết chắc chắn rằng không ai có thể thay thế hình bóng cha trong tim mẹ. Tôi muốn cùng mẹ nâng niu, gìn giữ những kỷ niệm dấu yêu, ngọc ngà của mẹ và cha đến suốt cuộc đời.

Hôm nay, nhân ngày giỗ lần thứ 44 của cha, con muốn thưa với cha một điều: Con cám ơn cha mẹ đã tạo cho con nên vóc nên hình.

Dù chưa một lần gặp mặt, cha đã nằm xuống, đã đi thật xa, không trở lại với mẹ với con. Song với con, cha vẫn hiện hữu bên con từng giờ, từng phút. Con nghĩ cha đã che chở mẹ con và con hơn một phần tư thế kỷ nay. Xin cha hãy giữ gìn, che chở mẹ trong suốt quãng đời còn lại. Con mong ngày nào đất nước thật sự thanh bình, mẹ sẽ đưa con về thăm lại quê hương. Con sông xưa sẽ trở về bờ bến cũ.

Ngày ấy ở một phía trời nào đó của quê hương, con sẽ thấy cha mỉm cười và nói với con: “Cha sung sướng lắm, con biết không? Con yêu dấu…!”


Một Đời Để Học



MỘT ĐỜI ĐỂ HỌC

 - Nguyễn Tấn Hưng
ĐỆ NHỨT THẬP BÁT ĐAO PHỦ THỦ
Hùng bắt buộc phải đến Nha Trang lần đầu tiên bằng đường biển. Từ ngoài khơi nhìn vào, Nha Trang quả là một bãi cát dài ngút ngàn, xa tít. Bãi cát trắng mịn, im lìm, phẳng phiu, ấp ủ bởi những lượn sóng thì thầm nối tiếp nhau tuôn vào bờ. Thành phố không có nhà chọc trời như trải dài cho đến tận chân núi đang làm bình phong cho bức tranh thủy mặc. Bầu trời xanh, trong vắt không một gợn mây của một ngày vào thu. Mùa nhập học, nhập khóa bắt đầu và mùa hè, với Hùng, mùa hè cuối cùng của đời học trò, đời sinh viên, như rồi đã trôi qua.
Dương vận hạm Cam Ranh, HQ 500, loại tàu lớn nhứt của Hải Quân Việt Nam lúc bấy giờ, ủi bãi trước vòng thành của Trung Tâm Huấn Luyện Hải Quân sau hai ngày lênh đênh ngoài biển khơi. Cũng biết lờ mờ là Hải Quân Việt Nam có ba Trung Tâm Huấn Luyện chính. Trung Tâm Huấn Luyện Bổ Túc ở Sàigòn là trường tu nghiệp dành cho các sĩ quan trung cấp và cao cấp. Trung Tâm Huấn Luyện Cam Ranh là trường đào tạo thủy thủ, lính tàu cơ bản. Và Trung Tâm Huấn Luyện Nha Trang gồm hai trường, thứ nhứt là trường Chuyên Nghiệp Sơ Đẳng và Cao Đẳng, trường tu nghiệp cho Hạ Sĩ Quan, và thứ hai là trường Sĩ Quan Hải Quân, trường đào tạo sĩ quan, quan tàu cơ bản. Còn trường thợ lặn, người nhái, trường ong biển (sea bees), trường gõ sét, trường chạy rùa … gì gì nữa ở đâu? Làm sao mà biết hết được!
Cửa đổ bộ mở ra và toàn khóa một trăm hai mươi tám tên, lên bờ xếp thành năm nhóm, năm trung đội. Cao trưóc thấp sau trên bãi cát xoai xoải dốc. Đầu óc còn lắc lư, mặt đất như còn nghiêng qua nghiêng lại.
- Anh đi tàu có vui không?
– Dạ vui.
– Anh có mệt không?
– Dạ mệt.
– Anh có cần tôi khênh hộ anh cái sac-marin không?
– Dạ không ạ. Cám ơn.
– Nè, anh uống miếng nước đi cho khỏe.
– Dạ…ực, ực … cám ơn anh.
Nghiêm. Đằng trước. Bước. Một hai ba bốn, một hai ba bốn … Hùng ngạc nhiên thấy đàn anh chăm sóc đàn em coi bộ tử tế quá, coi bộ tình nghĩa quá. Vậy mà nghe thiên hạ đồn cứ ra đây là sẽ bị quay nhừ tử, quay chết sống. Năm trung đội nối đuôi nhau băng qua đường, hiên ngang bước vô cổng trường, những bước chân coi như oai hùng nhưng uể oải, nặng nề vì cái sac-marin chất chồng trên vai. Sân cờ rộng rãi, sạch sẽ … Dậm chân tại chỗ. Bước. Một hai ba bốn, một hai ba bốn … Đứng lại. Đứng. Nghiêm. Nghỉ. Thao diễn nghỉ, tự do nghỉ.
Tất cả nhìn lên một cái khán đài nho nhỏ làm tạm bằng ván ép. Khóa đàn anh bây giờ hoàn toàn bao vây khóa đàn em vô giữa. Một số đông vẫn tiếp tục len lỏi vào trong hàng hỏi thăm sức khỏe, hỏi thăm về chuyến hải hành vừa qua. Rồi bỗng một tiếng hô quá lớn như xé bầu không khí:
– Nghiêm.
– Nghiêm mà anh còn nhúc nhích hả? Anh có biết đứng nghiêm là đứng thế nào không?
– Anh. Nghiêm mà anh còn cười hả? Anh dám giỡn mặt với đàn anh hả? Anh dám chống đối hả? Ở ngoài kia anh chuyên môn xách động, biểu tình, xuống đường phải không?
– Dạ. Đâu có.
– Dạ dạ cái gì …, chưa chi anh đã dám học sách xin xỏ rồi.
Ô hay, sao có vụ này. Tiếng nạt nộ, tiếng la hét của đám đàn anh thật tình có hơi lớn, hơi rộng họng, chát chúa bên tai. Thôi rồi, lời đồn quả không sai. Đám hùm hổ này sẽ quay mình như quay dế, quay cho sút càng gãy gọng, quay cho trầy vi tróc vảy, chưa chắc đã thôi. Bây giờ phải làm sao đây. Than vãn, run sợ cũng muộn rồi. Bạn bè sao mình vậy, chết chóc ai… Một giọng nói nhè nhẹ bên tai Hùng:
– Các anh yếu quá. Coi nè, … mới đụng nhẹ một cái là xiểng niểng rồi. Các anh đã thấy các anh hèn hạ chưa. Các anh đã làm nhục nhã Hải Quân rồi, toàn là bún thiu, tép riu.
Hùng đứng ngay ngắn trở lại, bực dọc lõ mắt nhìn thằng cha nhỏ xíu con mà dám nói mình riu riu. Ở Sàigòn mà phát ngôn bừa bãi kiểu này là bị ăn đòn rồi. Không hiểu sao Hùng chẳng dám hở môi. Một câu nhịn chín câu lành, chỗ này đâu phải là chỗ đấu lý, cái luận lý một chiều đó. Rồi như ai cũng hiểu thân phận mình, không bao lâu chỉ còn nghe toàn là câu hỏi mà không thấy câu trả lời. Bài diễn văn chào mừng đàn em không ai thèm nghe vừa chấm dứt, thì những câu nói gằn gằn như ra lệnh cũng bắt đầu vang dội.
– Tất cả khóa 17 nghe đây. Hôm nay các anh sẽ hân hạnh, được đàn anh các anh, chính thức long trọng đón tiếp.
– Long trọng đón tiếp. Anh nghe chưa, long trọng đón tiếp.
- Các anh biết các anh có tội,…
– Có tội, có tội, có tội.
– … đã để đàn anh các anh chờ đợi cả năm trời. Chờ đợi cả năm trời, chờ đợi cả năm trời, anh biết không?
Chỉ cần một người nói trên khán đài là đủ nghe rồi, đâu cần cái đám phụ đề, phụ diễn này đâu. Sao cứ nhai đi nhai lại nhức đầu nhức óc bên tai.
– Các anh không thể để đàn anh các anh thêm thất vọng, sau đây, để nêu cao giấc mộng hải hồ,…
– Giấc mộng hải hồ, giấc mộng hải hồ.
– … các anh sẽ chạy một vòng quân trường theo sự hướng dẫn của đàn anh các anh.
– Chỉ một vòng quân trường, một vòng quân trường.
– Tất cả sac-marin lên vai … Chạy.
Hùng không ngờ cái đám thân cao, cẳng dài phía trước phát vụt chạy như gió, chạy như muốn chạy đua nước rút với khóa đàn anh. Hùng mỏi mệt, lẹt đẹt phía sau. Mau lên, mau lên, yếu quá, yếu quá nghe lùng bùng bên tai. Hùng thấy hết, người vấp té, kẻ sút giày, đứa rơi mắt kiếng, thằng văng mũ cát-kết. Bỏ luôn. Chạy, chạy tán loạn, chạy lộn xà ngầu, chạy như điên. Một vòng quân trường mà sao chạy hoài không thấy hết. Cũng không ngừng lại được, mình như bị dòng nước lũ cuốn trôi đi, rán theo bầu bạn như chim theo đàn. Dồn hết sức tàn cho cuộc thử thách đầu tiên, không thể bỏ cuộc được. Cuối cùng Hùng cũng về đến mức ăn thua, nơi mà sau này Hùng mới biết là Thao Diễn Trường, thì anh em phần lớn đã ngay hàng thẳng lối. Hùng quăng cái sac-marin, bịch, xuống chân, đứng vô vị trí của mình. Mồ hôi nhỏ giọt, miệng khát khô. Sức nóng như lò than bốc lên từ mặt đất cát, đầy sỏi đá.
- Anh. Anh đã thấy mệt chưa?
– Dạ, thấy mệt rồi.
– Mệt à, anh làm cho tôi mười cái hít đất cho nó khỏe lại coi.
– Còn anh, anh thấy mệt chưa?
– Dạ, chưa?
– Tốt lắm. Anh ra đây nhảy thăng thiên độn thổ với tôi. Như vầy nè …, chừng nào tôi ngưng anh mới được ngưng nghe chưa.
Biết nói cách gì cũng không ổn rồi. Nhưng mà mới chạy về, thà là hít đất, nhảy xổm, đi chân vịt như tụi bị quay riêng đằng kia còn sướng hơn là đứng nghiêm kiểu trời trồng, không dám nhúc nhích như thế này. Không bao lâu trời đất quay cuồng, mấy đứa bịch bịch rồi mấy đứa ói mửa xung quanh, Hùng cố nhớ cái sac-marin của mình đang nằm ở phía bên nào để lỡ có ngã xuống cũng ngã cho êm thấm… Và Hùng mơ màng thấy mình đi về bệnh xá, bốn vó đưa lên trời, hai tay hai chân có bốn thằng bạn còn tỉnh cặp kè…
Cư xá sinh viên sĩ quan gồm bốn dãy nhà trệt lợp fibro cement có tên: alpha, beta, omega và xi. Dãy omega bị Việt Cộng pháo kích sập từ hồi khóa 14, một đống gạch vụn vẫn còn để y nguyên, chưa xây cất lại. Khóa đàn anh ở mặt trước, khóa đàn em ở mặt sau. Mười tên chung một phòng, hai giường bố loại khung sắt hai từng để sát hai bên vách cho tám tên, và hai giường gỗ để giữa phòng cho hai tên còn lại. Hùng được trả về phòng alpha 1 sau khi được chích cho một mũi thuốc khỏe và nằm nghỉ độ hơn một giờ. Bước chân vô phòng, thấy bạn bè để nguyên đồ trận nằm ngủ ngổn ngang dưới sàn xi măng. Hùng cũng chui vô trong góc làm một giấc. Đến chiều …
– Te, tít, tít. Te, tít, tít…
– Ê, dậy. Còi tập họp của mình kia. Tập họp, anh em. Tập họp.
– Phải hôn đó cha nội? Để nghe kỹ coi … Te, tít với te, tít, tít, cái nào của mình.
– Ừ, mày có ngon thì ở đó đi mà tít te, te tít.
Hùng ba giò bốn cẳng chạy ra sân không cần biết ai đúng ai sai, vì chưa nghe ai dặn tận mặt còi kêu sao là còi của mình. Thấy cả bọn nhốn nháo xếp hàng ngoài bãi cát trống. Những khuôn mặt bơ phờ lem luốc, những bộ đồ xốc xếch nhăn nheo, trong phút chốc, cả đám đã trở thành bệ rạc, tồi tàn như đám ăn mày. Không biết lũ đàn anh sẽ dở trò gì đây. Ăn cơm, phải, chỉ tới giờ ăn cơm thôi, còi tập họp đi ăn cơm. Đi hàng một vào phạn xá, đi bẻ góc vào bàn ăn kê khít khít nhau thành dãy, kéo ghế một lượt, ngồi xuống một lượt. Cá chuồn chiên, canh hầm ba rọi, mực xào bắp cải. Mới nhìn qua tưởng cơm quân trường chắc cũng hương vị lắm, ai ngờ đụng đũa vô món nào cũng tanh ói, nuốt vô muốn mửa trở ra. Rán ăn mà lấy sức, nếu kén ăn, không ăn được đồ ăn thì ăn đỡ cơm chan với nước trà cho bớt mùi hôi.
Sau bữa ăn nhạt nhẽo đầu tiên đó, tất cả về phòng căng dây bố cho giường của mình và xếp lại đồ đạc lặt vặt cho có ngăn nắp thứ tự… Mới ngày nào đi thi, mới ngày nào đi khám sức khỏe, mới ngày nào bạn bè tiễn đưa nhập trại Bạch Đằng 2, mới ngày nào xếp hàng lãnh quân trang, và mới ngày nào mới tập đi diễn hành một hai một hai, tất cả như hiện ra trước mặt Hùng. Bây giờ, tất cả như đã rơi vào một dĩ vãng quá xa xôi. Không còn Sàigòn, không còn những chiều đưa em dạo phố. Hùng thấy bữa nay mới như là ngày đầu tiên mình thật sự bước vào đời lính … Te, tít, tít. Te, tít, tít … tiếng còi tập họp như cắt gọn nỗi niềm suy tư của Hùng. Ủa, cái ngày đầu tiên này chắc đã chưa chịu chấm dứt.
Tất cả gấp rút mặc đồng phục, chạy ào ra bãi cát tập họp. Trời chiều đã sang mờ mờ tối.
– Tất cả khóa 17 nghe đây. Đêm nay, đối với các anh, sẽ là đêm không ngủ. Sẽ là đêm lửa trại để đánh dấu cái giây phút các anh tự nguyện rời bỏ cuộc đời dân chính, rời bỏ nếp sống sinh viên, để đi xây giấc mộng hải hồ.
– Giấc mộng hải hồ. Ha ha ha…
– Sau khi nghe tiếng còi, các anh ba mươi giây trở về phòng thay đồ tiểu lễ rồi trở ra tập họp lập tức. Anh nào chậm trễ sẽ được đàn anh các anh chăm sóc chu đáo. Te.
Chạy đi rồi lại chạy về. Hơn ba mươi giây sau:
– Khóa 17 nghe đây. Đàn anh các anh nhận thấy các anh di chuyển còn chậm chạp, dềnh dàng như hàng không mẫu hạm. Để cho các anh có thể tăng thêm vận tốc, sau khi nghe tiếng còi, các anh ba mươi giây trở về phòng mặc thêm đại lễ, rồi mặc thêm trây-di bên ngoài, tức khắc trở ra trình diện. Te.
Lại chạy và chạy. Cái cửa phòng sao nhỏ quá, chạy ra chạy vô muốn đạp lẫn lên nhau. Tiểu lễ bên trong, đại lễ bên ngoài, rồi trây-di bên ngoài nữa. Bung cái sac-marin tuôn hết mẹ nó lên giường, chụp cho lẹ mặc may còn đủ thì giờ. Hơn một phút sau:
– Tất cả nghe đây. Đàn anh các anh nhận thấy các anh chưa tiến bộ chút nào hết. Sau khi nghe tiếng còi, các anh được mười giây, lập lại mười giây, trở về phòng mang giày không vớ, theo kiểu mười giờ mười, như thế này …, hai chiếc giày như hai cây kim đồng hồ. Đồng thời mang tất cả quần áo civil đem ra đây lập tức. Te.
Mười giờ mười thì cũng không sao, kẹt cái không vớ, cát xúc vô giày cà nhắc cà nhắc, khó mà chạy mau được. Mà chậm trễ thì bị quay riêng. Sau mỗi hồi còi, Hùng thấy số trở ra tập họp coi như đúng giờ đúng giấc càng lúc càng thưa. Nhưng vẫn còn là số đông. Khôn hồn thì lẫn vào đám đông, người ta làm sao mình làm vậy, nổi quá cũng tiêu, chìm quá cũng ngủm, chỉ theo đạo trung dung mới còn cơ hội sống. Hùng thảy bộ đồ dân chính còn sót của mình vào đống đồ rồi trở về hàng, tự hỏi không hiểu mình có đủ sức để theo đám đông hay không. Mấy thằng to con lớn xác ngu quá, sợ gì mà sợ dữ vậy. Cứ nghe còi là làm liền như cái máy, không biết nghĩ suy. Phải từ từ mà hành động.
– Khóa 17 nghe đây. Sau khi nghe tiếng còi, các anh quỳ gối, hai tay để lên đầu. Te.
Đống áo quần bắt đầu lên dàn hỏa, tội cho mấy tên quá run sợ đem luôn mấy bộ đồ mới đi thiêu. Trong ánh lửa bập bùng mặt mày đàn anh tên nào trông cũng có nanh có gút.
– Tất cả lập lại theo tôi: “Tôi từ bỏ dân chính”.
– Tôi từ bỏ dân chính.
– Lớn lên.
– Tôi từ bỏ dân chính.
– Lớn lên nữa.
– Tôi từ bỏ dân chính.
– Tất cả khóc lên, khóc lớn lên. Te.
– Hu hu. Hu hu hu hu.
– Anh. Khóc mà anh dám cười hả. Khóc lên, khóc nữa lên.
– Hu hu. Hu hu hu hu.
– Pha-rô. Time out. Pha-rô. Để các anh được say sưa với giấc mộng hải hồ, bây giờ tất cả được phép nằm xuống, ngủa mặt lên trời, đếm sao đêm. Te. Đếm lên. Lớn lên. Te.
– Một, hai, ba, bốn…
– Năm, mười, mười lăm, hai mươi …
– Tất cả cười lên. Te.
– Ha ha. Ha ha ha ha.
– Khặc khặc khặc…
– Mấy anh dám giỡn mặt với đàn anh hả? Biểu mấy anh cười, mấy anh khóc. Biểu mấy anh khóc, mấy anh cười. Giỡn mặt với đại quan hả?
– Haha. Ha ha ha ha. Khặc khặc khặc.
– Pha-rô. Pharô. Tất cả quỳ gối, hai tay lên đầu. Te.
– Kể từ giờ phút này các anh được quyền gọi đàn anh các anh là niên trưởng và xưng tôi. Anh nào tiếp tục anh anh, em em theo lối dân chính sẽ được các niên trưởng chiếu cố nồng hậu. Và tiếp theo đây là phần giới thiệu 17 niên trưởng “đao phủ thủ” (danh xưng của đàn anh trong ban lo huấn nhục khóa đàn em) của các anh. Kể từ ngày mai, những vị đao phủ thủ này sẽ săn sóc các anh càng tận tình hơn nữa.
– Đệ nhứt đao phủ thủ, niên trưởng Võ Bửu Khai. Te. Khóc lên.
– Hu hu. Hu hu hu hu.
– Đệ nhị đao phủ thủ, niên trưởng Hà Quang Hải. Khóc lên.
– Đệ tam đao phủ thủ, niên trưởng Trịnh Xuân Tụng. Khóc lên.
– Đệ tứ đao phủ thủ, niên trưởng Dương Văn Tèo …
– Đệ ngũ đao phủ thủ, niên trưởng Lê Lương Ngô, khóc lên.
– Đệ lục đao phủ thủ, niên trưởng Huỳnh Quang Hưng…
– ….
– Đệ thập thất đao phủ thủ, niên trưởng Lý Ngọc Ẩn, khóc lên, khóc lên…
– Sau khi giải tán, tất cả đồ ăn thức uống dân chính mà các anh mang theo phải được thanh toán bằng mọi cách ngay trong đêm nay. Anh nào chừa lại, bất cứ món gì, là anh đó sẽ … “rách”. Không cờ bạc rượu chè, không cà phê thuốc lá gì cả. Rõ chưa?
– Rõ.
– Sau khi tan hàng các anh được phép lắc lư về phòng. Nghĩa là lăn về phòng. Rõ chưa?
– Rõ.
– Tan hàng.
– Cố gắng.
– Anh. Anh có nghe lăn về phòng hay không mà anh chạy. Lăn, nằm xuống, lăn. Anh dám xách động, chống đối đàn anh hả?
Lăn lóc, trầy trụa rồi cũng lắc lư về được phòng, may là bãi tập họp cũng gần cư xá. Cả bọn nhìn nhau phân vân cho số phần trước mắt của mình. Ngày mai, ngày mai rồi sẽ ra sao với đám đao phủ thủ, và còn phải chịu đựng cho biết đến bao giờ. Sống chết có nhau là huynh đệ chi binh, chi binh kiểu cốt nhục tương tàn này thì còn huynh đệ làm chi cho mất công. Bước đường cùng coi như đã đến, bốn phương tám hướng, chưa nhận ra phương nào là Đông, hướng nào là Tây, chưa biết đâu là bệnh xá, chưa biết đâu là nhà tắm, phòng vệ sinh. Làm gì hơn, đã lên lưng cọp rồi thì chỉ còn phải cỡi thôi.
– Ê, Hùng, đâu mày phụ tao làm hết mấy thứ này coi.
Việt – Trương Thanh Việt, thằng bạn nằm giường dưới của Hùng, vừa nói vừa lôi ra một đống lương khô, thịt hộp, sữa, đường, bánh ngọt … sắp đầy trên mặt bàn. Hùng trả lời dứt khoát:
– Trong cái cảnh thê lương này mà ăn với uống gì nữa mậy. Tiếc rẻ làm chi, đào lỗ chôn cha nó hết cho rồi, cho đỡ hoạn nạn.
Anh Nguyễn Thành Long, mới chịu có một tăng mà cái chân bắt đầu có tật, kéo xà lia xà lia đi vòng vòng hỏi thăm dầu nóng, cũng cười hề hề chêm vào:
– Thằng Hùng nó nói trúng đó. Không những chôn mà còn phải chôn cho thiệt kỹ nữa. Chôn không kỹ tụi nó thấy dấu, tụi nó moi lên thì càng chết sớm. Ở đây xứ cát cũng dễ, bươi tay chôn cũng được, nếu gặp đất giồng như giồng ông Tố thì bọn mình nguy to.
Nhóm bên kia vách còn có tiếng vọng qua:
– Còn mấy bao thuốc lá này thì sao.
– Thì mày rán thức suốt đêm mà hút cho hết. Tụi nó đâu có cấm hút thuốc được. Cấm như vậy mấy thằng ghiền chết mẹ nó hết sao. Đâu có tàn nhẫn dữ vậy.
– Đàn anh là cha mẹ mà, mày muốn được làm con cưng thì cứ giữ mà hút.
Mười giờ đêm. Còi tắt đèn. Chờ. Đến khi nào chỉ còn nghe tiếng ễnh ương, bù tọt, và tiếng nhà máy đèn chạy đêm rù rì đâu đây, cả bọn mới dám phân tán mỏng đi đào công sự, làm đám ma cho những cặn bã dân chính còn sót lại. Rồi như thấm mệt, tất cả lên giường lăn ra ngủ, chưa kịp nghĩ là suốt cả ngày nay đâu ai đã được đi tắm.
Te, tít, tít. Te, tít, tít. Năm giờ sáng. Tiếng còi tập họp, sáng này còn kiêm thêm tiếng còi đánh thức, bắt đầu nghe có vẻ ma quái, rùng rợn. Không biết lúc nào nó sẽ kêu, te, tít, tít, đơn giản như vậy mà là điềm bắt đầu của một chuyển động, một quay cuồng. Đàn anh bàn giao nhiệm vụ làm vệ sinh cho đàn em, thụt cầu tiêu, chùi la-va-bô, rủa phòng tắm. Từ nhỏ đến lớn chưa bao giờ làm việc này, bây giờ hôi thúi, chán quá. Hệ thống nước bị nghẹt, chảy tỏn ton như người ta đi đái. Phải ra giếng lấy nước cho lẹ, nón sắt đi nón sắt về chuyền tay nhau như dân làm đất đi đào kinh.
Te, tít, tít. Xếp hàng đi ăn sáng, bánh mì, chuối già, nước trà.
Te, tít, tít. Thể dục thể thao, chạy vòng vòng bãi tập, bãi cát trống giữa cư xá và bộ chỉ huy tiểu đoàn sinh viên sĩ quan. Một vòng, hai vòng, ba vòng, chạy trên cát bắt đầu thấy giống như chạy trên bùn. Bốn vòng, bước nào cũng thấy lún xuống sâu. Năm vòng, có mấy tên mặt mày tái xanh. Sáu vòng, có thằng ói mửa. Bảy vòng, ngã lịch bịch dọc đường. Tám vòng, nằm la liệt. Chín vòng, còn một số đi bộ. Mười vòng, mười một vòng, … chỉ còn mấy cán bộ đàn anh, mấy cán bộ không có nhiệm vụ quay:
– Yếu quá. Các anh yếu quá, phải chạy tối thiểu là hai chục vòng.
Sau đó đỡ hơn, tập đi thao diễn, một hai ba bốn, một hai ba bốn, cho đến trưa.
Te, tít, tít. Mô hôi như tắm mà vẫn phải xếp hàng đi vào phòng ăn, thứ tự từng trung đội, đi bẻ góc vô bàn ăn rất đàng hoàng, lịch sự. Bò ra-gu, canh rau muống, gà kho sả ớt, coi bộ có lý …
Te … Đàn anh bỗng dưng ở đâu túa ra đông nghẹt. Hùng linh tính như có chuyện chẳng lành. Cái gì nữa đây, trời đánh tránh bữa ăn nghen.
– Khóa 17 nghe đây. Tất cả kéo ghế ra. Te.
– Tất cả xoay bệ ghế vào trong. Te.
– Tất cả quỳ gối lên, hai tay lên đầu. Te.
Á, quỳ gối hai tay lên đầu. Đúng là đàn anh không sợ trời đánh. Một số còn tự nhiên len lỏi vào trong hàng ngũ đàn em hỏi thăm sức khỏe từng người.
– Trái này là trái gì, anh.
– Trái ớt.
– Trái này mà là trái ớ́t à. Trái này là trái chuối các anh biết không. Ai mà còn nói trái ớt là sẽ rách với tôi. Anh, trái này là trái gì?
– Trái chuối.
– Được lắm. Anh ăn trái chuối này cho tôi coi. Hả miệng ra.
– Anh có cần uống rượu khai vị không?
– Không.
– Anh, chén này là chén gì?
– Nước mắm.
- Ai dám nói với anh là nước mắm, là rượu khai vị của Hải Quân anh biết chưa. Anh uống vô cho tôi coi…
– Pha-rô. Sau khi nghe tiếng còi, tất cả ba mươi giây chun xuống bàn. Te.
– Sủa lên, sủa to lên. Te.
Vừa chật chội, vừa nóng nực, mà đứa này phải sủa vô mặt đứa kia. Mấy tấm drap trải bàn che khuất ánh sáng, mặt mày thằng nào trông cũng đen như lọ chảo. Sủa mậy, sủa đi mậy. Quấu quấu, quấu quấu. Quấu …
– Pha-rô, pha-rô.
– Tất cả chun ra ngồi vào ghế. Te.
– Tất cả bới cơm vào chén. Te.
Xoong cơm bây giờ thiệt đúng là xoong cháo heo. Lợi dụng lúc đàn em làm chó, đám đàn anh xấu bụng đã đổ hết mấy món ăn vô xoong cơm, trộn lộn xà ngầu. Trộn luôn mấy miếng vỏ chuối lai-sét, thấy bắt gớm.
– Tất cả phải ăn hết chén cơm trước mặt trong vòng ba mươi giây, anh nào chậm trễ sẽ lãnh phần còn lại. Te.
– Yếu quá. Khóa 17 yếu quá, có cái ăn mà cũng không xong. Yếu quá.
– Tất cả bới cơm vào chén. Te.
– Ăn. Te.
Được nửa chén thứ hai, Hùng muốn ói trở ra. Chịu thôi, phen này không theo nổi đám đông được rồi, phải chịu lãnh phần ăn hết nồi cơm thôi, Hùng buông đũa.
– Anh. Anh theo tôi ra đây. Anh dám chê cơm Hải Quân hả, vậy là anh không muốn sống rồi. Anh đi bằng đầu gối giáp vòng phòng ăn này cho tôi.
Được. Bị quay riêng như vầy còn sướng hơn là ăn cái đống hổ lốn đó nhiều. Chén thứ ba, có thêm mấy tên nữa đi đầu gối với Hùng. Chén thứ tư, gần nửa khóa. Chén thứ năm, còn lại có mấy thằng, bụng nào mà ăn dữ vậy. Chén thứ sáu … Rồi người cuối cùng là thằng Đỗ Văn Quả cũng phải tham gia công tác vừa đi đầu gối, vừa sủa ma trơi mà thôi. Mấy bà chị, mấy cô em làm trong phạn xá không cầm được nước mắt, khăn mù-soa sụt sùi.
Chắc thấy chưa đủ “dose”, đàn anh sau đó tập họp đàn em ngoài bãi tập. Toàn bộ 17 đao phủ thủ dàn hàng ngang trước mặt. Người mặc áo rằn ri, kẻ mặc đồ thái cực đạo, tên này vận quần đùi áo lính, tên kia quấn cái quần dài ở trần trùi trụi. Đội mũ lệch, đội mũ nghiêng, đội mũ ngược. Đằng đằng sát khí, không mặt nào giống mặt nào.
– Như đã hứa với các anh, hôm nay các anh sẽ được các đao phủ thủ tận tình săn sóc.
– Tận tình săn sóc.
– Để bắt đầu, các anh sẽ chạy đường trường vòng quanh sân tập. Anh nào tự động rời bỏ hàng ngũ sẽ, được tiếp đãi riêng rẽ. Te. Chạy. Te.
Mới ăn no mà bắt chạy thì không hợp vệ sinh chút nào hết. Hình như có kinh nghiệm buổi sáng, cho nên đám dẫn đầu chỉ chạy từ từ thôi. Năm vòng, chưa tên nào đào ngũ, mới đó mà tiến bộ thật. Sáu vòng, bắt đầu có người ngã ngựa. Rồi mấy vòng nữa tiếp theo, nhiều tên ói mửa lai láng, nằm rải rác khắp bãi cát, thoi thóp như chờ chết. Không biết tới vòng thứ mấy thì cả khóa đều bị quay riêng. Nguyên bãi tập gần ba trăm người, hễ thấy ai đứng thì biết là đàn anh. Đàn anh thì có ba tốp, tốp quay, tốp cứu bồ, và tốp cho nước. Đàn em thì chỉ có bò, trườn, lăn lộn, bơi ngửa, bơi xấp như một đàn siêu, hải cẩu, trong cái biển cát. Hải âu phi xứ, ngửa mặt lên trời vỗ cánh đếm sao trưa là sung sướng nhất, còn được cái cơ hội để nghỉ mệt, để lấy hơi.
Ở phía hàng rào trường Kỹ Thuật có mấy tên không biết chống đối đàn anh cỡ nào mà bị chôn sống chỉ còn ngo ngoe có hai cánh tay và cái đầu lòi ra trên mặt cát. Chỉ còn thiếu cái cày và cặp trâu nữa là xong. Ở phía câu lạc bộ của Đoàn Viên còn một nhóm đang lăn cái thùng phi, có một tên bị thụt đầu trong đó, quay vòng vòng như khúc gỗ. Một tên nữa đang biểu diễn một nghề mới của người hát xiệc, nghề “người đi trên thùng phi”. Nếu người hát xiệc không đóng được tuồng thì người hát xiệc sẽ trở thành khúc gỗ, bởi vậy dầu thùng phi lắc lư cách mấy cũng phải rán mà giữ mình, rán mà đi cho vững.
Vì lúc nào cũng bận rộn với những động tác ngoài ý muốn của mình, mà thời giờ qua mau. Lúc sắp tàn cuộc thì trời đã về chiều. Tất cả được tập họp bên cái giếng lớn, để làm lễ “chào đời”.
– Tất cả quỳ gối, hai tay lên đầu. Te.
– Kể từ giờ phút này, đàn anh tuyên bố cho các anh được làm lớp trứng mới, lớp “trứng thúi”.
– Trứng th … úi, thúi quá đi.
– Trong tương lai các anh tuần tự sẽ được nở ra nòng nọc, nòng nọc sẽ đứt đuôi thành nhái, mới được đi bờ, đi phố, đi Nha Trang.
– Úi chà, đi Nha Trang.
– Tất cả bắt đầu lạy. Ba lạy, một … hai … ba …
Những giọt nước mát, chảy từ đầu xuống cổ, vừa đủ thấm vào bâu áo, thấm vào da thịt như làm sống lại cái thân thể khô khan, gầy gò, bụi bậm. Đàn anh chỉ làm được có bao nhiêu đó rồi từ từ rút lui. Từng nón sắt một, rồi hàng chục, hàng trăm nón sắt nữa dội vào nhau tung tóe. Đàn anh đã đi xa, tiếng cười giỡn, chửi thề, văng tục như hiện về từ cõi chết, như được nghe lại lần đầu trong thế giới 17.
Bóng đêm đã về. Xong được ngày thứ hai. Được tắm rửa sạch sẽ, được nhìn lại mình trong gương, được cầm lược chẻ ngôi làn tóc, những động tác thường ngày mới đó mà tưởng chừng như xa lạ. Thả lưng lên giường thấy thỏa mãn làm sao. Chắc phải viết thư về nhà diễn tả cái cảnh nửa đau thương nửa thú vị này. Cuộc đời trong quân ngũ bắt buộc phải khác cuộc đời thường tục rồi. Ai nỡ bỏ lỡ cái cơ hội này.
Te, tít, tít. Te, tít, tít. Te, tít, tít.
Thôi rồi, ngày thứ hai này chắc cũng chưa đã chịu hết. Mới được sạch sẽ một chút, chẳng lẽ lại làm cho dơ trở lại. Đàn anh không chịu để mình yên. . Tập họp, tập họp, tập họp hoài. Nhưng, khác hẳn những lần trước, lần này cả khóa được hướng dẫn lên giảng đường 17. Vậy là đêm nay mình sẽ không bị hành tội, tưởng gì chớ đi học ca, học hát thì dễ rồi. Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay. Trời nước Nam gió khơi nồng máu say. Ra đi không vương thê nhi, miền Bắc núi tuyết rét mướt, thân phơi trên Nam Băng Dương, trải trên ngàn trùng sóng … Ra khơi sóng vang rạt rào, mênh mông sóng va thân tàu, nghe âm u, ù ù, át tiếng máy, ầm ầm, quân ta reo, rầm rầm, tàu nhấp nhô. Mờ mờ xa mây núi, mờ mờ xa mây núi. Đi không vương bến bờ, chờ. Ra khơi trùng dương bát ngát. Ngày về tổ quốc ghi tên. Rồi tiếp theo, Đây Bạch Đằng Giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống anh hùng Nam Bắc Trung. Trên trời xanh … rồi đến Đường trường xa muôn vó câu bay dập dồn, đoàn hùng binh … Bỗng nhiên đèn tắt tối mù, và những tiếng hô brimade, brimade vang dội như trời long đất lở. Tới nữa rồi, đàn anh tới nữa rồi. Cả bọn đang hồn vía lên mây, nhốn nháo như ong vỡ tổ, thì đèn bật sáng lên. Lại những tên đao phủ thủ.
– Te. Đàn anh nhận thấy các anh ca hát rất tồi. Các anh chỉ biết sủa thôi. Tất cả quỳ gối hai tay lên đầu. Sủa lên, sủa lớn lên. Te.
Sủa thì sủa, có hại ai. Tru cũng được. Mà nghe kia, có tiếng tru của đứa nào vừa lớn vừa trong, lanh lãnh không thua gì tiếng chó sói thiệt. Nghe rợn người, đã vậy còn có phần phụ diễn đèn màu, lúc cháy lúc tắt của đám đàn anh nữa.
– Chun xuống bàn và tiếp tục sủa. Te.
– Pha-rô. Tất cả chun ra đi đầu gối vòng vòng giảng đường. Te.
– Tất cả xăn ống quần khỏi đầu gối. Te.
Da người cạ với xi-măng làm sao khỏi mòn, khỏi đau. Vậy mà có một tên đàn anh chơi dại dám cầm một bụm cát rải rải trên lối đi. Trông như xác pháo tả tơi, vì mỗi bước đi đầu gối là mỗi tiếng nổ. Xổ ống quần phủ một đầu gối, để làm cây nạng chịu đựng, gánh gồng. Rồi cũng bị bắt xăn lên, rồi cũng lén xổ xuống.
– Anh. Anh có biết con này là con gì không?
– Con nhái.
– Anh mới chỉ là cái trứng thúi mà dám gọi con này là con nhái hả. Con này là ông nội của anh, anh biết chưa. Hôn ông nội anh một cái coi.
– Hôn kiểu gì kỳ vây, anh không biết nút lưỡi hả?
– Anh kia. Anh dám cười hả. Mút ông nội anh một miếng coi
– Mút ông nội anh một miếng
– Mút ông nội anh một miếng.
– Các anh làm quá ông nội hết xí quách rồi, trắng chạch mẹ nó rồi. Anh này, hả to họng ra. Nuốt luôn ông nội anh đi.
Đêm hôm đó trời đổ cơn mưa. Hùng tréo chân dựa lưng trên bệ của sổ ngó ra hàng thông mới trồng mà lòng thấy bâng khuâng. Những hạt mưa vô tình đã xóa tan dấu vết của chỗ chôn đô dân chính, thành một mặt cát phẳng. Ánh đèn vàng vọt từ phạn xá, từ bên kia hàng rào Kho Đạn, phản chiếu những giọt mưa đang trở thành lâm râm, càng làm bóng đêm thêm mờ ảo. Nha Trang buồn, Hùng nghĩ vậy, mặc dù chưa biết Nha Trang trong ruột như thế nào … Xong, kể như qua được ngày thứ hai.
– Hùng, nước trong phòng hết rồi, tới phiên mày đi lấy kìa.
Thằng Phước, Nguyễn Thành Phước tới giục Hùng như vậy.
Tới giờ đi ngủ rồi mà ăn với uống gì nữa mậy. Tuy miệng nói vậy nhưng Hùng cũng biết bổn phận, nhảy xuống lấy cái nón sắt chạy xuống nhà ăn. Nồi nước trà còn lưng lưng, ấm ấm. Hùng chụp cái gáo múc đổ vô nón liên tục, rồi ba chân bốn cẳng chạy về, cứ sợ gặp phải đàn anh. Nhưng chạy trời không khỏi nắng, vừa ra khỏi cửa thì nghe tiếng quát tháo:
– Anh kia, giờ này mà anh chạy đi đâu.
– Dạ, đi lấy nước cho anh em, niên trưởng.
– Chớ cái lũ đó không có chân không có tay hay sao mà anh phải lấy giùm. Anh giỏi lấy thì anh phải giỏi uống. Uống vô cho tôi coi.
– Uống hết?
– Còn chờ đợi gì nữa.
Kê miệng uống ở vành nón thế nào nước cũng chảy ướt áo, mà phải chịu ướt áo không thôi thì bể bụng. Phải biết hy sinh. Làm xong mhiệm vụ, Hùng chào đàn anh cái cụp, xách nón không chạy tuốt về phòng không dám ngó ngoái lại.
– Nước đâu mậy? Hết rồi hả?
– Còn. Mà nhịn khát đi ngủ đi. Hay là mày muốn uống thêm một cái nón sắt nữa như tao thì cứ đi thử coi.
Hùng vỗ cái bụng chông bốc, ướt nhẹp mấy cái rồi nhảy lên giường. Bây giờ mới thiệt là đã qua được ngày thứ hai.
Ngày thứ ba cũng bắt đầu bằng thụt cầu tiêu, chùi la-va-bô, rửa phòng tắm. Cũng ăn sáng, chuối già bánh mì nước trà. Cũng chạy thể dục thể thao vòng vòng bãi tập. Cũng đi diễn hành một hai ba bốn, một hai ba bốn, nhưng bây giờ có kèm thêm phần văn nghệ, vừa đi vừa hát. Toán chiến sĩ hải quân ra khơi hôm nay … Đây Bạch Đằng Giang, sông hùng dũng của nòi giống Tiên Rồng, giống Lạc Hồng, giống anh hùng Nam Bắc Trung... Và chỉ học thêm được mỗi cái nghề đánh giày. Đánh ci-ra ướt với nước và bông gòn, không bóng không được đi ăn cơm. Bữa ăn trưa ngày thứ ba thiếu sót rất nhiều, không có rượu khai vị, không có cháo heo, không có lai-sét, và cũng không có chó gặm xương.
Đàn anh chắc đã thông cảm rồi. Đàn anh đã biết, huynh đệ chi binh là cùng chung đời lính yêu nhau khác chi nhân tình. Nhưng, đàn anh đàn em sinh viên sĩ quan hải quân yêu nhau một cách khác. Bảo đảm thấm thía hơn nhân tình nhiều. Sau buổi cơm trưa chừng nửa giờ thì đã nghe te, tít, tít. Đàn anh báo một tin buồn, anh Vũ Thế Tiệp đã chính thức đi vào lòng đại dương từ bệnh xá quân trường. Mặc dù mãi sau này anh em mới biết anh Tiệp chết vì bị ảnh hưởng của bịnh đái đường, nhưng cái chết của anh lúc đó đã làm tinh thần anh em bị chấn động, sa sút. Ai nấy đâm lo cho số phận của mình, không biết có nên bỏ cuộc nửa chừng, hay có nên chống báng cái đường lối huấn nhục hành hình kiểu kia. Nhưng nghĩ cho cùng, mình cũng không còn cái quyền chọn lựa.
– Các anh đã làm nhục Hải Quân, mới vào đây có hai ngày mà đã chết một người rồi. Các anh phải chết thêm mười sáu mạng nữa thì mới xứng đáng làm quan, quan tàu, các anh hiểu chưa.
Có người hy sinh, tưởng là mức độ quay sẽ được giảm xuống đôi chút nào ngờ giảm không giảm mà lại tăng, tăng vùng vụt. Từ đi đầu gối trên cát chuyển sang đi đầu gối trên vỉ sắt, rồi tới luôn, đi đầu gối trên vỉ sắt lật ngược. Từ đầu gối bọc quần chuyển sang đầu gối trần, một bước đầu gối một tiếng kêu… xèo … trên vỉ sắt nóng. Từ quần áo, giày vớ chuyển sang da thịt, tay chân, thân thể:
– Anh. Tại sao anh dám để râu của anh mọc lởm chởm vậy hả? Nè, tôi giao anh hai miếng ngói này, anh vừa nhảy thăng thiên độn thổ vừa kẹp và nhổ hết đám râu đó cho tôi.
– Còn anh. Râu anh cụt quá không nhổ được đâu. Anh lại nền xi măng đằng kia vừa hít đất vừa mài râu… nhẵn nhụi cho tôi coi.
– Móng tay nhọn? Mài luôn!
Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi, cái câu này bây giờ nghe chán ngắt. Máu chưa chảy ruột sao mềm. Phải rồi, phải có máu chảy mới có đi bệnh xá, phải có đi bệnh xá mới có băng bó, phải có băng bó mới có miễn quay. Vậy mà sợ quá nghĩ không ra. Tàn trận nướng thân trên vỉ sắt, hết nửa khóa nối đuôi nhau đi thăm mấy cô y tá.
Đêm thứ ba đàn anh mũi lòng trước cảnh máu đổ thịt rơi, tự động ân xá đàn em. Để thay thế trò chơi brimade, đàn em sẽ trình diễn cống hiến đàn anh một đêm văn nghệ không ngừng, vì ngừng là bị quay tiếp. Đàn anh hôm nay sang hơn một chút, lên làm vua, làm chúa, làm đại thần. Kiệu vua, kiệu chúa, kiệu đại thần làm bằng mấy cái … giường sắt cũng có hoa có tụi bằng … drap trải giường, được hộ tống nghênh ngang ngoài bãi cát. Võng anh đi trước, võng nàng theo sau. Cũng có cung tần mỹ nữ mặc robe, iupe, cũng có vú bự vú nhỏ kèm theo kiệu cho mấy ngài. Thêm vài tên đấm bóp giả làm thái giám là đủ mặt bá quan văn võ triều đình.
– Nè anh kia. Anh kiếm đâu cái con tiện tỳ này nó hôi nách quá. Anh đuổi cổ nó đi cho tôi coi … đi đi cha. Anh kiếm cho đại quan một con khác coi.
– Tuân lệnh.
Đêm văn nghệ chửi nhỏ, chửi khéo, chửi xiên, chửi xéo đàn anh bị lộ tẩy cho nên chương trình bị bắt buộc phải ngưng ngang nửa chừng. Và đêm thứ ba cũng chấm dứt bằng một cơn quay nhừ tử .
Qua ngày sau, cả khóa đi chích TAB. Mấy ngày ăn cháo, mấy ngày đàn anh không dám động mình tới một cọng lông. Nhờ cánh tay đau nhức tăng tăng mà cái thân đỡ khổ. Lúc hết thuốc thì chương trình ôn toán đại cương, kèm thêm phần tam giác cầu của Hải quân đại úy Lê Phụng cũng bắt đầu. Vậy mà chương trình huấn nhục vẫn tiếp tục dài dài, xen kẽ với chương trình học. Đến ba tháng, cũng may là cường độ giảm dần, giảm dần.
Tuần thứ sáu đánh đấu bằng lễ nở ra nòng nọc, và tuần thứ mười hai đánh dấu bằng lễ nòng nọc đứt đuôi thành nhái. Cũng tại cái giếng lớn nhưng hai lần sau này không những có nước giếng mà còn có xà bông, kem đánh răng, ci-ra tri trét lên đầu. Nhưng, kỷ niệm ý nghĩa nhất có lẽ là lễ nhận “bố con”, Hùng có bố là đàn anh Lê Quang Trung hiền như cục bột. Tội cho những bác, chú bị tuyệt dòng không con, vì khóa 17 ít người hơn, phải nhận cháu, con của bạn. Đêm bố con là đêm làm giàu cho câu lạc bộ, bố phải đãi con, nhiều khi con lẫn cháu, một chầu. Ba tháng trời chỉ có cơm quân trường, đám con cháu nhìn món nào cũng thấy thèm thấy ngon, kêu món nào cũng thấy láng thấy hết, trong tíc tắc. Bố chỉ nhìn và thông cảm, vì đoạn trường này bố cũng đã qua cầu.
Một ngày di hành lên Hòn Chồng, và một chuyến hải hành ra Qui Nhơn, những tiết mục sau cùng trước ngày gắn alpha và đêm dạ vũ, cũng được tuần tự diễn ra theo đúng lịch trình. Gắn alpha, cánh của bước vào đời sĩ quan, Hùng cảm thấy … nó ngoạn mục làm sao.
Rồi chương trình học chính thức bắt đầu. Những môn căn bản của sĩ quan như: Hàng Hải Cận Duyên, Hàng Hải Viễn Duyên, Hàng Hải Thiên Văn, Vận Chuyển Đội Hình, Vận Chuyển Chiến Thuật, Hải Pháo (yểm trợ và phòng không), Ngư Lôi tức torpedo, Thủy Lôi là depth charge, Lãnh Đạo Chỉ Huy… v. v. Vì phải lãnh đạo chỉ huy nên sĩ quan cũng phải học sơ qua 14 nghề của thủy thủ: Phòng Tai (cứu hỏa), Cơ Khí, Điện Khí, Giám Lộ (cờ đèn), Ra-dar So-nar, Trọng Pháo, Truyền Tin, Vận Chuyển, Bí Thư, Tiếp Liệu, Ẩm Thực, Chiêu Đãi… Và những món ăn chơi như Khiêu Vũ, Thái Cực Đạo, Xã Giao Hải Quân … Thời gian huấn nhục đã đi sâu vào tiềm thức, thấy kính mến đàn anh vô bờ, thấy mình trở nên cứng rắn như sẽ không còn cảnh ngộ nào làm mình lay chuyển nản lòng, và như sẽ không còn biết thế nào là xúc động, rơi nước mắt.
… Rồi thời gian thấm thoát qua mau:
– Tất cả khóa 18 nghe đây. Te. Các anh phải biết là các anh có tội.
– Có tội, có tội.
– Đã để đàn anh các anh chờ đợi cả năm trời.
– Chờ đợi cả năm trời …, chờ đợi cả năm trời …
… Và, mười tám đao phủ thủ cho khóa đàn em cũng được trân trọng giới thiệu.
– Đệ tứ thập ngũ đao phủ thủ, niên trưởng Trịnh Xuân Tiểu.
– Khóc lên…
– Đệ tam thập lục đao phủ thủ, niên trưởng Nguyễn Bích Ngân.
– Khóc lên…
– Đệ nhị thập thất đao phủ thủ, niên trưởng Nguyễn Đức Nghĩa.
– Có ta đây …
– Đệ nhất thập bát đao phủ thủ, niên trưởng Nguyễn.. .
– Không đợi đọc hết tên, Hùng đã nhảy lên khán đài như một võ sĩ vô địch, chấp tay bái tạ cùng đất trời. Nguyện sẽ tận tình săn sóc đàn em, nguyện sẽ giữ gìn truyền thống Hải Quân như số phần đã định. Hùng rống lên vang dội:
– Ta là đệ nhất… thập bát đao phủ thủ…

Thị Trấn Biến Mất

Thị Trấn Biến Mất

Thuở bé - tôi vẫn nhìn về phía núi Vọng Phu - để lòng bồi hồi thương cho hai bóng người hóa Đá. Bà tôi đã kể rằng  vùng núi ấy có kẻ “ngậm ngãi tìm trầm” …. đi lạc trong rừng mấy mươi năm. Khi người ấy tìm về được đến quê nhà thì đã …. hóa thành một con Vượn - không còn thể nói được tiếng Người.
Thỉnh thoảng, ở chợ Ninh Hòa — tôi rất sợ khi nhìn thấy có một vài người - da đen thui, tóc quăn tít — đàn ông mặc khố, đàn bà địu con trên lưng. Chắc họ từ núi Vọng Phu xuống. Có người nói họ là người Thượng ở BUÔN SIM.
BUÔN SIM  chỉ cách thị trấn Ninh Hòa # khoảng 14 km — theo hướng quốc lộ 21. Người dân quê tôi không gần gủi với vùng đất này. Bởi khí hậu nơi ấy vô cùng khắc nghiệt. Nằm trong lòng chảo của nhiều rặng núi — Buôn Sim là một vùng đất khô cằn, sỏi đá — Ban đêm thì rất lạnh ! Ban ngày thì rất nóng !
Sau hiệp định Geneve vài năm — Buôn Sim bổng biến thành một Quân Trường khổng lồ  gồm 3 trung tâm huấn luyện  Pháo Binh — Biệt Động — Lam Sơn.
 Và cái tên DỤC MỸ ra đời.
Khác với thời chống Pháp — mà người lính là những “áo anh rách vai & quần tôi có hai miếng vá”  các quân nhân miền Nam VNCH — được huấn luyện và trang bị rất quy củ + với các doanh trại khang trang, bề thế.
Với số lượng quân nhân trong 3 Trung Tâm Huấn Luyện  kèm theo gia đình của những sĩ quan, hạ sĩ quan, binh sĩ …. thị trấn DỤC MỸ — mọc lên giữa bốn bề núi non. Tuy thị trấn nhỏ bé nhưng vô cùng nhộn nhịp.
Cũng giống như những thị trấn mới toanh (trong phim cowboy — miền viễn tây Mỹ quốc — Dục Mỹ là nơi quy tụ của rất nhiều người tứ xứ về đây. Họ mang theo các giọng nói của từng vùng miền.
Người có máu làm ăn cũng vội vàng tìm về đất hứa nơi đây.
 Chợ Dục Mỹ cũng cung cấp đầy đủ mọi thứ — để nấu được những món ăn đặc trưng theo kiểu Sài Gòn, Bắc, Huế ….
“Vợ Lính” thong dong — chẳng cần làm việc gì — chỉ phải lo cơm nước và nuôi con.
Những chuyến xe lam như con thoi — nối liền Ninh Hòa & Dục Mỹ. Người dân Ninh Hòa — bây giờ hướng về thị trấn mới — như một thị trường hấp dẫn. Nơi mà họ có thể làm giàu — nhờ nghề cung cấp thực phẩm.
Nhà Thờ và Nhà Chùa cũng được xây lên. Các xe schoolbus (đã được biến đổi — từ các xe GMC của 3 quân trường) — chở con cái của những quân nhân — xuống Ninh Hòa học tại các trường trung học. Những cô cậu học trò đã từng được ngồi — trên những chiếc GMC “cải tiến” này — (nay cũng đã > < trên / dưới 60 tuổi. Và tôi tin rằng …. dầu ở chân trời góc bể nào — họ cũng không bao giờ quên — những chuyến xe chở học sinh “kỳ lạ” ! Nhưng đầy ắp niềm vui một thuở này !
Chủ Nhật — con phố Dục Mỹ “Đi dăm phút đã trở về chốn cũ” có bóng dáng của những “thiếu úy”, “trung úy” trẻ trung với bộ quân phục thẳng nếp …. thong thả dạo gót + rồi ghé vào một tiệm sách — có cô bán hàng xinh xinh.
Bên con suối Dục Mỹ — vài quán cà phê đã ra đời — có tiếng nhạc (hòa) trong những tiếng ầm ào thác đổ.
 Người lính miền Nam VNCH thuở ấy …. vẫn còn mang nét vẻ thư sinh lãng mạn. Ra trận — thay vì “nhìn về phía trước”  “nhắm thẳng quân thù mà bắn”  (*) họ đã quay nhìn lại phía sau  “Người đi khu chiến, thương người hậu phương” (**)
Biến cố năm 1975  như một cơn động đất dữ dội  làm sụp đổ hoàn toàn Trung Tâm Huấn Luyện. Toàn bộ cư dân gồm những quân nhân từ 3 Trung Tâm Huấn Luyện cùng gia đình của họ đều tháo chạy khỏi Dục Mỹ — tan tác hãi hùng như những mảnh vỡ của một trái phá ….
Thị trấn Dục Mỹ bỗng chốc như bị thần đèn mang đi đâu mất.
 Dục Mỹ đã trở lại là BUÔN SIM hoang vắng như thuở nào.
Cũng còn một số người ở lại. Vì họ không biết đi đâu & về đâu ? Và họ đã trở thành dân của một vùng kinh tế mới mang tên  NINH SIM.
Và người dân Ninh Sim đã phải làm gì để tồn tại — khi 100% người đã mang trên đầu  bản án lý lịch xấu. Con cái của họ — chắc chắn không được vào đại học + những người thân của họ không biết còn sống / hay đã chết trong các trại “cải tạo lưu đầy“ ?
Nếu người Ninh Hòa khi ấy — kiếm sống bằng cách bám vào bến xe đò và ga xe lửa + với các chuyến đi buôn lậu gạo, đường, thuốc lá, đạp xe ba gác, làm phu khuân vác …. thì người dân Ninh Sim (Dục Mỹ) kiếm sống bằng cách bám vào núi rừng.
Họ lên núi đào khoai mài, cắt tranh, lấy đót. Họ “ngậm ngải tìm trầm” và có người đã chết mất xác trong rừng sâu & núi thẳm. Họ chặt củi, hái trái rừng, trồng khoai mì, trồng mía. Họ tìm cách sống trong im lặng + âm thầm chịu đựng — mặc cho những loa phường ngày ngày vang lên …. những cái giọng tự hào “chiến thắng giặc Mỹ” để toàn dân xây dựng “thiên đường Xã Hội Chủ Nghĩa”.
Và Tượng Đá Bồng Con ở trên non cao kia — chắc cũng đã nhiều lần rơi lệ thương cho — cảnh con người đang ra sức bức hại con người.
Năm ngoái, anh Phạm Văn Nhàn trở về Ninh Hòa — rủ vợ chồng tôi đi thăm lại Dục Mỹ. Nơi anh có thời gian rất lâu là sĩ quan của quân trường Lam Sơn.
Xe ghé lại núi Đeo. Nơi vẫn còn Tháp Huấn Luyện của quân trường Biệt Động Quân — nằm bên Khu Mưu Sinh.
 Khu Mưu Sinh được dựng bên một dòng suối  đã biến mất ! Nhưng ngôi tháp vẫn còn !
Anh Nhàn muốn chụp một tấm hình …. có Người Lính Già trở về thăm ngọn đồi kỷ niệm.
Qua khỏi Dục Mỹ  chúng tôi nhìn thấy những cảnh đồng Mía bạt ngàn + những đàn bò gầy ốm đang gặm cỏ trên những cánh đồng nắng cháy.
Đến khoảng cây số 17 — anh Nhàn cho dừng xe.
“Hình như Trung Tâm Lam Sơn — hồi trước ở đây mà sao — giờ, tui không còn nhìn thấy gì hết ?”
Rồi anh ghé vào hỏi thăm một cô hàng nước :
“Cô ơi ! Trung Tâm Lam Sơn ở đâu hả cô ?”
Cô hàng nước mỉm cười  chỉ tay xuống đất :
“ Dạ ! Ở ngay đây này !”
Anh Nhàn nhìn quanh. Chẳng còn gì là dấu vết của một địa danh lừng lẫy DỤC MỸ !
Anh bước thêm vài bước  chẳng thấy phố ! Chẳng thấy người chỉ ! Chỉ còn thấy toàn …. MÍA là MÍA !
Hơn mười năm tồn tại  DỤC MỸ của 3 quân trường năm xưa …. bây giờ chỉ còn là cát bụi thời gian !

Huyền Chiêu