Tấm Lòng Của Mẹ
“Lấy
chồng
thì phải
theo chồng
Chồng đi hang rắn hang rồng
cũng theo”
Khoảng
cuối
năm 1947 vì sự sống còn, ba má tôi phải
bỏ
tất
cả
tài sản
nơi
làng quê Tịnh Thới, ruộng đất xã Mỹ Hòa, Đồng Tháp Mười lên thị
xã Cao Lãnh chỉ vì ba theo tôn giáo chống
lại
Việt
Minh đang bành trướng trong các làng quê. Người cày không còn ruộng.
Trước khi đột ngột ra đi, ba tôi đã cắt
dây xỏ
mũi đôi trâu, để cho nó tự đi kiếm
ăn, khỏi
đói.
Khác với
người Bắc di cư sau này,
gia đình chúng tôi rất
là vất
vả
vì không có được bất cứ sự trợ giúp nào của chính quyền. Gia đình chúng tôi không nhà, sống
trên ghe, đậu mé sông gần bến
chợ.
Sống
trong cảnh
chật
hẹp,
thiếu
vệ
sinh. Trong những tháng đầu, ông bà phải
trả
giá thật
đắt
về
hai chữ
tự
do. Hai đứa con đầu lòng bị bệnh truyền nhiễm và cả hai đều chết vì thiếu thốn thuốc men. (1)
Sau đó gia đình
chúng tôi dời ra khỏi khu chợ non một cây số, gần thánh thất Cao Đài. Dù chật
hẹp
nhưng
má tôi cũng nuôi vài con gà, khi
gà lớn, đem ra chợ bán, để
đổi
lấy
những
thứ
cần
thiết
cho gia đình.
Khoảng
4-5 giờ
sáng má tôi đã thức dậy để nấu một nồi cháo trắng cho chúng tôi
ăn, trước khi đi học, vì đâu có tiền
mua xôi hay bánh mì. Mùa nước nổi thì ăn cháo với
cá linh kho. Thỉnh thoảng được ăn cháo với đường. Vì không có tiền
mua củi,
má tôi lượm lặt tất cả những thứ gì kiếm được để nấu, tàu dừa khô rụng không ai đếm xỉa,
xác mía, vỏ dừa khô, vỏ vú sửa, lá tre, lá lợp
nhà, gỗ
mục
người ta bỏ,
...
Chạy
lo cho các con ăn từng bữa. Hàng xóm, láng giềng
có rau cải,
vài lon đậu, vài lít gạo, vài giạ lúa đem bán thì
má tôi mua.
Mỗi
buổi
sáng má tôi đến chợ quan sát các thực
phẩm
mà người ở vườn đem ra bán. Loại thực phẩm nào nhiều thì bà dự
định
mua món ấy
về
cho gia đình, vì là giá sẽ rẻ. Chỉ là dự định thôi chứ chưa
mua đâu. Giữa
trưa, gần tàn buổi chợ, khi trời nắng gắt, thực phẩm không còn tốt tươi nữa, bạn hàng sẽ bán với giá rẻ. Còn những người dân quê, thỉnh thoảng
mang thực
phẩm
như
cá, rau cải, trái cây ra chợ
bán. Thường thì nhà họ
xa chợ,
lúc này cũng muốn bán tháo, bán rẻ
để
về
nhà cho sớm trước khi mặt trời lặn.
Chợ sắp tan, thì má tôi mới
bắt
đầu
mua. Hồi nhỏ
chúng tôi thường phàn nàn, má đi chợ
lâu.
Ba tôi thường không có ở nhà để ăn chung. Thực phẩm
thiếu
thốn,
lại
sáu đứa
con đang tuổi ăn. Má tôi không bao giờ
(never) ngồi ăn chung với các con. Má tôi chờ các con ăn xong rồi
mới
bắt
đầu
ăn. Còn lại gì thì bà ăn nấy,
không phàn nàn, hay bảo để dành phần. Bà nhường thức ăn cho các con.
Tuổi vị thành niên, mơ
đời hải hồ, tôi vòi vĩnh cho được dây chuyền bằng vàng với cái mỏ
neo. Chiều theo thằng
con trai cưng. Sao tôi vô tình quá !.
Sau khi ra trường Sĩ Quan Hải Quân, thực tập
trên Đệ
Thất
Hạm
Đội,
tôi có mặt
trong vùng xôi đậu Mộc Hoá, Đồng Tháp Mười cho đến
hòn đảo
Poulo Panjang (Thổ Châu) thời bấy
giờ ít người lui tới. Những chuyến hải hành hỏa tốc từ Hà Tiên đến Chu Lai, Đà Nẵng,
Cam Ranh, Nha Trang, Vũng Tàu vào tháng 3 năm 75, lúc miền
Trung đang sốt nặng và hôn mê (2).
Hải
nghiệp
cuối
cùng là Cơ Khí Trưởng (bất đắc dĩ) của Cơ Xưởng Hạm Vỉnh Long HQ 802 đưa
người tỵ nạn, trong đó có tôi, từ
Vũng Tàu đến Subic Bay, Phi Luật
Tân.
Gần
20 năm xa xứ, tôi đưa vợ con về thăm ông bà nội.
Chúng tôi quyết định không ở Hotel mà về
nhà với
gia đình. Má tôi vẫn
tận
tụy
lo cho con, cho cháu như ngày
nào. Giữa
khuya, trời mưa, chân đất má tôi cầm cây đèn dầu
đi qua xóm trên, mua thuốc cho cháu gọi bằng
dì ở
trọ,
đang đau. Khi thấy bà về mọi người mới biết là bà đi mua thuốc.
Chòm xóm, nếu
quá túng thiếu thì má tôi cho họ
mượn vì dằn lòng không đậu.
Họ
mượn rồi trả, rất sòng phẳng vì họ
biết
gia đình tôi không khá cho lắm.
Sau khi ba chết,
tôi nhờ
chú lo hậu
sự
cho má nếu
má tôi mất.
“Tao thương má mầy như chị ruột của tao”. Chú kể rằng
má cho chú mượn tiền để học bằng lái xe vận tải
mà không nói cho ba biết. Nhờ đó chú có nghề
nghiệp
vững
chắc.
Về
sau được làm tài xế lái xe cho sở Mỹ.
Tôi thương má tôi vì quá hiền lành, chất phác bị
mấy
bà cô bắt
nạt,
nhưng
ba tôi có uy tín trong gia đình nên các bà cô không dám hỗn
hào. Cho đến khi tôi hiểu biết,
tôi chưa
bao giờ
thấy
má tôi cải
lộn
hay lớn
tiếng
với
một
ai. Tôi nghĩ rằng bà thường nhịn nhục, chịu thua, thiệt thòi để
đức
lại
cho con cháu. Vì thế vợ chồng tôi gặp được rất nhiều may mắn trong đời.
Bà biết
được Sài Gòn là vì gia đình vợ tôi ở Sài gòn, lên để
thăm bà Sui cho phải phép. Duyên số
chúng tôi gặp
nhau nơi
xứ
người. Đây là lần gặp gỡ đầu tiên giữa má và vợ
tôi. Thật ra tôi không biết
phản
ứng
giữa
bà nhà quê, không biết chữ, và cô dâu Bắc tỉnh
thành sẽ
ra sao. Trước khi chia tay,
má tôi có đưa cho vợ tôi 3 cây vàng để
chúng tôi lo cho các cháu ăn học. “Đây là quà của
con gởi
về.
Quà, vải,
thuốc
men gửi
về
má bán, dành dụm. Đây là tiền của
các con.” Vợ tôi từ chối.
Trong suốt
thời
gian viếng
thăm, hai má con không nói chuyện nhiều. Bà chỉ khuyên bảo tôi vài lời
" Nhớ lo lắng, chăm sóc vợ
con".
Cuối
đời,
nằm
trên giường bịnh, muốn gặp đứa con xa xứ nửa
vòng trái đất. Tôi cầm lấy tay má. Bà đưa
tay tôi lên miệng hôn. Nước mắt
bà trào ra. Tôi rất
cảm
động
khi thấy
vợ
tôi, con dâu từ Mỹ về, không quản ngại
sự
tiểu
tiện,
dở
bẩn,
hôi thúi, xắn tay lên lau chùi cho má tôi với
tấm
lòng thương kính.
Tốt nghiệp Kỹ Sư Điện,
đi làm, và được đại diện công ty đi Âu Châu để
thuyết
trình sự
nghiên cứu
của
tôi. Buổi thuyết
trình thành công, tôi mừng quá. Buổi ăn tối,
tôi gọi
chai rượu champagne. Khi uống vào hớp đầu tiên thì nước mắt
tôi trào ra và sau đó tôi khóc như một đứa trẻ - ngay trước mặt
vợ
tôi. Nhờ ơn
người mà tôi có được như ngày nay.
Tôi may mắn, sung sướng, và hãnh diện
má tôi là một bà nhà quê thật
thà chân chất.
Có gia đình lại
đông con, bây giờ thì mới hiểu thơ Hồ Dzếnh nói về sự hy sinh.
“Cô gái Việt
Nam ơi.
Nếu
chữ
hy sinh có ở đời
Tôi muốn
nạm
vàng muôn khổ cực. Cho lòng cô gái Việt
Nam tươi”.
Chú Thích:
(1)
Trang
222, “Cao Lãnh Trong Niềm Thương Nỗi Nhớ”, Trần Văn Miêng
(2)
"HQ-802
Những
Ngày Cuối
Trên Biển
Đông", Vũ Quốc Công
Giang
Đoàn 42 NC Poulo
Panjang
Nguyễn Hoàng Be
No comments:
Post a Comment